“BAMBOO NETWORK” CỦA CÁC GIA TỘC GỐC HOA Ở
ĐÔNG NAM Á (Phần 1)
Dương Anh Vũ
Khu vực Đông Nam Á (ĐNA) có chưa đến 10% dân số là người gốc Hoa
(Hoa kiều) – rơi vào khoảng 67,6 triệu người. Ngoại trừ Singapore có người gốc
Hoa chiếm đa số (74,3% dân số), thì ở 10 quốc gia Đông Nam Á còn lại, người gốc
Hoa đều chỉ là dân tộc thiểu số. Nhưng tôi tin rằng, bạn sẽ vô cùng bất ngờ nếu
biết về tiềm lực và sức mạnh kinh tế của nhóm thiểu số Hoa kiều này…
Người
gốc Hoa ở Đông Nam Á ước tính kiểm soát 2.000 tỷ USD tài sản lưu động. Để biết
được con số này lớn đến mức nào thì chúng ta hãy nhìn vào Tổng GDP của khu vực. Theo dữ liệu của Ngân hàng Thế giới năm 2023, tổng GDP của cả 11 quốc gia Đông
Nam Á cộng lại chỉ có 3.317 tỷ USD. Chưa dừng lại ở đó, tuy người gốc Hoa chiếm
chưa đến 10% dân số, nhưng họ lại kiểm soát 70% tài sản doanh nghiệp của ĐNA,
và cứ 100 tỷ phú thì có 86 người có gốc gác là Hoa kiều. Họ còn kiểm soát 500
tập đoàn lớn nhất ở Đông Nam Á với tài sản lên tới 500 tỷ USD. 90% doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở ĐNA cũng thuộc sở hữu của Hoa kiều, kiểm soát 2/3 giao dịch bán lẻ
và sở hữu 80% tổng số công ty niêm yết công khai theo vốn hoá trị thường chứng
khoán trên toàn khu vực Đông Nam Á. Nói thẳng ra thì chưa đến 10% dân số, nhưng
lại kiểm soát đến 70% tài sản, trong khi đó 90% dân số bản địa Đông Nam Á tranh
nhau 30% còn lại. Vì thế nhiều người đã dùng câu nói “Thiểu số giàu có, đa số
nghèo khó” để mô tả vấn đề này.
Bạn
sẽ bất ngờ thêm một lần nữa khi biết rằng, tổ tiên của những người gốc Hoa ở
Đông Nam Á phần lớn là nạn nhân của các cuộc di dân vì kinh tế, họ phải rời bỏ
quê hương của mình vì quá nghèo đói, đặc biệt là cuối thời Nhà Thanh, họ đến
các thuộc địa của thực dân phương Tây ở Đông Nam Á để tìm kế sinh nhai. Họ làm
bất cứ nghề gì miễn là có thể kiếm được tiền để gửi về Đại lục cho thân nhân
của mình. Vì thế chúng ta phải công tâm để nhận xét rằng, người gốc Hoa ở Đông
Nam Á rất siêng năng và chịu khó. Trong giai đoạn đầu định cư, để tích luỹ tài
sản, họ đã làm cả những nghề nghiệp mà xã hội bản địa khinh rẻ… Nhưng khi tích
luỹ đủ tài sản để bước đến giai đoạn đầu tư và làm chủ thì người gốc Hoa “bất
chấp” thêm một lần nữa, lần này là “làm giàu bất chấp”, để đạt được mục tiêu,
họ không ngại đụng chạm, không ngại hối lộ, luồn lách, lươn lẹo, thao túng thị
trường và cả phạm pháp…
Vua
Rama VI của Thái Lan, một nhà cai trị có tư tưởng dân tộc chủ nghĩa mạnh mẽ, dù
tổ tiên của ông có một phần dòng máu Hoa kiều, ông cũng có vợ gốc Hoa, nhưng
ông ghét người Hoa trên lãnh thổ của mình. Ông viết một cuốn sách với tựa đề
“The Jews of the East”, và ông xem người Hoa như là người Do Thái ở phương
Đông, các bạn cần lưu ý, đây là một hình thức so sánh ẩn dụ mang tính miệt thị
chứ không phải tôn vinh. Trong mắt của nhiều người châu Âu trước Thế chiến thứ
hai, đặc biệt là những người có tư tưởng dân tộc chủ nghĩa, họ xem người Do
Thái như là loài ký sinh trùng, trong suốt chiều dài lịch sử châu Âu có rất
nhiều lần người Do Thái bị d.i.ệ.t c.h.ủ.n.g và g.i.ế.t hại hàng loạt, chứ
không phải “D.i.ệ.t c.h.ủ.n.g Holocaust” của Phát Xít Đức là lần đầu tiên như
nhiều người lầm tưởng. Giờ chúng ta quay lại tư tưởng “Bài xích Hoa kiều” của
vua Rama VI trong cuốn sách “Người Do Thái ở phương Đông”, ông ấy đã mô tả
người Hoa là "những kẻ man rợ hám lợi, hoàn toàn không có đạo đức và lòng
thương xót". Ông miêu tả các doanh nhân Hoa kiều đang gặt hái thành công thương
mại của họ từ sự tổn thất của người Thái bản địa. Chính những tư tưởng này của
nhà vua đã ảnh hưởng mạnh mẽ lên tinh thần bài Hoa kiều của xã hội Thái Lan,
đặc biệt là trong giới chính trị và thượng lưu, họ đã đổ lỗi cho các doanh nhân
người Thái gốc Hoa đã làm nền kinh tế khó khăn, họ xem giới tài chính Hoa kiều
đã làm bần cùng tầng lớp nông dân Thái vì những món nợ với lãi suất cao. Từ đó
vua Rama VI và chính phủ của ông đã ban hành nhiều chính sách nhằm đồng hoá
người gốc Hoa trên lãnh thổ Thái Lan, trong đó buộc tất cả phải sử dụng “họ”
bằng tiếng Thái. Kiểm soát các trường học chuyên biệt dành cho người Hoa, thậm
chí là đặt ra các tiêu chuẩn ngôn ngữ, buộc người Hoa phải nói được tiếng Thái.
Tuy
các chính sách đồng hoá người gốc Hoa của Thái Lan được xem là hiệu quả nhất
Đông Nam Á, nhưng ở mặt kinh tế và chính trị thì sẽ làm cho mọi người lại bất
ngờ thêm một lần nữa… Theo ước tính, Thái Lan có 14% dân số là người gốc Hoa
(khoảng 9-10 triệu người), vì thế cộng đồng Hoa kiều ở Thái Lan là đông nhất thế
giới, và 14% thiểu số này lại sở hữu khoảng 85% toàn bộ nền kinh tế Thái Lan.
Trong danh sách 40 người giàu nhất Thái Lan thì 80% trong số đó có tổ tiên là
người Hoa. Chưa dừng lại ở đó, 10 doanh nghiệp gia tộc gốc Hoa giàu có nhất lại
kiểm soát đến ½ tổng tài sản doanh nghiệp của toàn đất nước Thái Lan. 50 gia
tộc gốc hoa giàu nhất đã kiểm soát từ 81-90% tổng vốn hóa thị trường của toàn
bộ nền kinh tế Thái Lan. Về chính trị, tính đến nay, Thái Lan có 30 người từng
được bổ nhiệm vào ghế Thủ tướng chính phủ, trong đó 23 thủ tướng là người Thái
gốc Hoa, bao gồm cả vị thủ tướng đương nhiệm hiện giờ là Srettha Thavisin hay 2
cựu thủ tướng bị lật đổ của gia tộc Shinawatra là Thaksin và em gái Yingluck
cũng là người gốc Hoa. Trong lịch sử Quốc hội và Nội các chính phủ Thái Lan thì
không thể đếm hết số chính trị gia gốc Hoa trong các nhiệm kỳ.
Tiêu
đề của bài viết tôi có nhắc đến thuật ngữ “Bamboo network” (Mạng lưới tre),
thuật ngữ này được sử dụng để chỉ sự kết nối các doanh nghiệp của các gia tộc
Hoa kiều ở Đông Nam Á với nền kinh tế của Trung Quốc Đại lục, chính mạng lưới
này giúp CHND Trung Hoa mở rộng quyền lực và kiểm soát hiệu quả cũng như tạo
sức ảnh hưởng về kinh tế và địa chính trị lên 11 quốc gia trong khu vực Đông
Nam Á. Bên trong “Mạng lưới tre” là một hệ thống các doanh nghiệp gia đình Hoa
kiều, được truyền từ đời này sang đời khác, và “Trương gia” của bà Trương Mỹ
Lan chỉ là một mắt xích tương đối khiêm tốn trong toàn bộ hệ thống này, dù khối
lượng tài sản của gia tộc bà ở Việt Nam không hề nhỏ. Nói thẳng ra thì Bamboo
network là một hình thái cộng sinh giữa Bắc Kinh và các gia tộc gốc Hoa ở Đông
Nam Á, 2 bên đều đạt được lợi ích riêng của mình, nhưng chính điều này đã đặt
ra hàng loạt mối đe dọa vô hình đối với các quốc gia vừa và nhỏ ở khu vực. Trên
thực tế, từ buổi ban đầu di cư xuống Đông Nam Á, các Hoa kiều đã bắt đầu phát
triển “Network” (mạng lưới) dựa theo nhóm văn hoá vùng miền của chính họ được
gọi là “bang”. Ở miền Nam Việt Nam trước đây, người Hoa có đến 5 nhóm, được gọi
là “Ngũ Bang”: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Khách Gia (người
Hẹ). Các nhóm này ban đầu được lập ra với mục đích tự bảo vệ cộng đồng người
gốc Hoa ở xứ người, tương trợ lẫn nhau khi gặp khó khăn… Nhưng qua thời gian,
nó phát triển thành một mạng lưới làm ăn kinh doanh, từ đó thao túng thị trường
và lũng đoạn giá cả, đặc biệt là ở những lĩnh vực người gốc Hoa độc quyền. Sự
kiện “x.ử b.ắ.n Tạ Vinh” của Ngũ Bang người Hoa ở Sài Gòn năm 1966 khi họ thao
túng thị trường gạo khiến giá gạo tăng từ 5,5 đồng lên 7 đồng là một điển hình
của việc các bang hội người gốc Hoa kiếm lợi bất chính từ việc thao túng thị
trường, dùng quyền lực mềm trong việc độc tôn thương mại để chèn ép chính quyền
nhà nước. Về sau này, mạng lưới các bang hội tiến hoá thêm một bậc, chúng liên kết
xuyên quốc gia và kết quả là cuối thế kỷ XX trở thành “Bamboo Network”, một
thực thể siêu liên kết, với lợi ích đạt được nhiều hơn, quyền lực mềm lớn hơn,
nhưng kín đáo hơn.
Cộng
đồng Hoa kiều lớn thứ 2 thế giới là ở Malaysia, ước tính có 6,7 triệu người gốc
Hoa ở quốc gia này, tương đương với 22,8% dân số. Chính phủ Malaysia không có
những chính sách hiệu quả trong việc kiểm soát và đồng hoá người gốc Hoa vào xã
hội của mình, vì thế mà người gốc Hoa ở quốc gia này phần lớn đều duy trì văn
hoá riêng của họ gắn liền với đạo Lão, đạo Khổng, bao gồm cả việc sử dụng tiếng
Hoa trong giao tiếp hàng ngày và mở các trường học dành riêng cho con em người
gốc Hoa. Mức độ người gốc Hoa thao túng nền kinh tế Malaysia được đánh giá là
gây ra sự bất mãn của người bản địa nghiêm trọng hơn so với Thái Lan rất nhiều.
Ước tính sơ bộ thì 6,7 triệu người Malaysia gốc Hoa đã kiểm soát đến 70% nền
kinh tế quốc gia, họ sở hữu 69,4% các tổ hợp kinh doanh, 71,9% tổng số bất động
sản thương mại và công nghiệp, cũng như 69,3% tất cả các khách sạn ở Malaysia.
Nếu
so với sự mềm mỏng của người Thái và người Việt trong các mối quan hệ đối với
cộng đồng người gốc Hoa thì có lẽ người Malaysia và Indonesia là những dân tộc
có tư duy thù địch và cực đoan nhất đối với người gốc Hoa sống trên lãnh thổ
của mình. Vì trong lịch sử, những người theo chủ nghĩa dân tộc Indonesia từng
phát động các cuộc bạo loạn lớn nhắm đến người gốc Hoa. Trong đó, chính phủ của
Tướng Suharto từng cân nhắc đến việc buộc toàn bộ cộng đồng Hoa kiều phải di cư
ra khỏi lãnh thổ của Indonesia, khi ý tưởng này trở nên không thể thì chính phủ
mới hướng đến giải pháp: “… tận dụng năng lực kinh tế của người gốc Hoa, nhưng
đồng thời loại bỏ sự thống trị về kinh tế của họ”. Ngoài ra Indonesia còn cố
gắng đồng hoá người gốc Hoa bằng cách cấm họ dùng ngôn ngữ, thực hành tôn giáo
và tổ chức lễ hội truyền thống… Chính quyền đã liên tục kích động và tuyên
truyền các chính sách bài Hoa kiều. Trong một cuộc phỏng vấn năm 1989 do học
giả Adam Schwarz thực hiện, một người được phỏng vấn đã nói rằng: "đối với
hầu hết người Indonesia, từ 'người Trung Quốc' đồng nghĩa với tham nhũng".
Đỉnh điểm, vào tháng 3/1998, nhiều cuộc biểu tình lớn đã diễn ra nhắm vào người
gốc Hoa, tài sản của họ bị đốt phá, cướp bóc, hơn 100 phụ nữ bị tấn công tình dục,
chỉ tính riêng tại Jakarta và Sukarta, hơn 1000 người chết trong các trung tâm
mua sắm do bị các nhóm biểu tình đốt cháy. Hàng chục nghìn người gốc Hoa đã rời
bỏ Indonesia.
Sau
một loạt các vụ phân biệt đối xử khiến cho nhiều gia tộc giàu có gốc Hoa rời bỏ
Indonesia dẫn đến nền kinh tế tê liệt và thiệt hại nghiêm trọng, chính phủ Hậu
Suharto đã kêu gọi người gốc Hoa quay lại và các đặc phái viên được Jakarta
phái đi đã gọi người gốc Hoa là “chìa khoá để khôi phục hoạt động kinh tế và
vốn”. Vì chỉ tính riêng trong giai đoạn 1997-1999, thị trường của Indonesia đã
bốc hơi 20 tỷ USD vốn để chuyển sang các thị trường nước ngoài như Singapore,
Hong Kong và Mỹ. Hãy lưu ý, đây là 20 tỷ USD của những năm 90 của thế kỷ trước
(tổng GDP của Việt Nam năm 1997 chỉ có 34,1 tỷ USD mà thôi).
Trong
lịch sử di cư của người gốc Hoa ra thế giới, có lẽ Việt Nam là một trong những
vùng đất mà người Hoa đến sớm nhất, điều này diễn ra là do chính sách đồng hoá
của các triều đình phương Bắc áp đặt lên Việt Nam trong giai đoạn 1000 năm Bắc
thuộc. Người gốc Hoa di cư đến Việt Nam trong nhiều giai đoạn và diễn ra khá
liên tục, trong đó có cả các lần di cư vì chính trị cuối thời Minh, đầu thời
Thanh và di cư vì kinh tế đầu thời kỳ thuộc địa. Tuy người Việt có xu hướng
không ưa Hoa kiều, nhưng nếu so với thái độ thù địch của người Malay và Indo
đối với người gốc Hoa thì người Việt ôn hoà và dễ tính hơn rất nhiều. Nếu ai
yêu thích các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, một nhà văn chuyên viết về xã hội
miền Nam thì các bạn sẽ phát hiện ra một điểm chung, hầu hết các tiểu thuyết
của ông đều có xuất hiện các tuyến nhân vật phụ là người gốc Hoa, điều này nói
lên cho chúng ta biết rằng, người Hoa ở miền Nam thời Pháp thuộc đã ảnh hưởng
lên kinh tế xã hội rất nhiều, sự ảnh hưởng này liên tục phát triển cho đến sau
năm 1975. Thời đó miền Nam có khoảng 1,2 triệu người gốc Hoa, tuy chỉ chiếm
6,3% dân số nhưng họ lại kiểm soát hơn 80% cơ sở sản xuất các ngành công nghiệp
thực phẩm, dệt may, hoá chất, luyện kim, điện… và gần như độc quyền 100% buôn
bán, hơn 50% bán lẻ và 90% xuất nhập cảng. Theo ước tính, tổng số tiền mặt
người Hoa ở Sài Gòn nắm giữ tương đương với 1/3 tổng số tiền đang lưu hành
trong cả nước. Từ những dữ liệu mà tôi vừa cung cấp, rõ ràng là người gốc Hoa
trước năm 1975 đã kiểm soát gần như toàn bộ nền kinh tế của Việt Nam Cộng hoà.
Nhưng hiện nay, nếu so với các nền kinh tế khác trong khu vực như Thái Lan,
Malaysia, Indonesia, Philippines hay Singapore… thì kinh tế Việt Nam lại ít
chịu ảnh hưởng và kiểm soát bởi người gốc Hoa nhất… tại sao lại như thế?
Tất
cả vấn đề này đều đến từ “Chiến tranh Biên giới phía Bắc năm 1979”. Trước khi
cuộc chiến chính thức nổ ra, vấn đề quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung
Hoa đại lục không hề êm đẹp, chính phủ Việt Nam vì lo sợ nếu chiến tranh xảy ra
thì người gốc Hoa có thể trở thành đạo quân thứ 5 của Đặng Tiểu Bình nên đã bật
đèn xanh để cho Hoa kiều ở trong nước rời khỏi Việt Nam. Sau năm 1975 số người
Hoa trên lãnh thổ Việt Nam đạt con số 1,8 triệu người, nhưng sau chiến tranh
Biên giới, cộng đồng gốc Hoa ở Việt Nam chỉ khoảng 900.000 người. Những người
gốc Hoa còn ở lại Việt Nam sau đợt di tản trước chiến tranh biên giới đã tạo
dựng nên một số doanh nghiệp có tiếng ở Việt Nam như: Tập đoàn bánh kẹo Kinh
Đô, Tập đoàn Thiên Long, Gốm sứ Minh Long, giày dép Biti’s hay Tập đoàn bất
động sản Thành Thành Công (TTC Group) và cả các doanh nghiệp của gia tộc bà
Trương Mỹ Lan hiện đang bị điều tra và khởi tố.
Rõ
ràng là rất nhiều tài sản đi theo người Việt gốc Hoa đã rời khỏi Việt Nam trong
đợt di tản trước chiến tranh biên giới, điều này có thể đã gây hại đến kinh tế
Việt Nam sau khi chính thức mở cửa vào năm 1986, giống như trường hợp của nền
kinh tế Indonesia khi người gốc Hoa rời khỏi quốc gia này sau những cuộc bạo
loạn thập niên 80-90, nhưng đổi lại, kinh tế Việt Nam ít chịu lệ thuộc vào các
doanh nghiệp gia tộc Hoa kiều hơn các quốc gia khác trong khu vực. Tất cả đều
phải đánh đổi… Nếu nền kinh tế chịu lệ thuộc quá nhiều vào các gia tộc Hoa kiều
như Thái Lan hay Malaysia thì chính phủ sẽ rất bị động trong việc điều tra và
khởi tố một doanh nghiệp gốc Hoa nào đó trong lãnh thổ của mình, vì các gia tộc
có thể liên kết lại để chèn ép và thao túng hệ thống chính trị quốc gia bằng
tài chính và sức mạnh kinh tế, hãy nhìn vào khái niệm “Bamboo network” thì sẽ
rõ, họ là một mạng lưới, không chỉ liên kết với nhau mà họ còn liên kết với
Trung Quốc đại lục. Trong tư duy của nhiều nhà nghiên cứu, “Bamboo network”
chính là cánh tay nối dài của chính phủ Trung Quốc ở khu vực Đông Nam Á.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét