Tổng số lượt xem trang

Trang

Chào mừng các bạn đến với "Motthoimongolia"





Số người online -----


web trends

Thứ Hai, 28 tháng 2, 2022

Phượt Mông Cổ giữa mùa đông khắc nghiệt

 Nhóm của Quỳnh Anh, Hà Nội, dựng lều ở hoang mạc khi bên ngoài âm 8 độ C, bão tuyết "gào thét" như muốn đánh sập lều.

Nhóm chúng tôi gồm 20 người, khởi hành từ Hà Nội tới Mông Cổ tháng 2/2020, khi Covid-19 đang bùng phát tại Trung Quốc và ít ca ở Việt Nam. Chúng tôi dành 7 ngày để lái xe off road, khám phá vườn quốc gia Altai Tavan Bogd phía tây đất nước. Đây là nơi sinh sống của bộ tộc du mục đi săn với chim đại bàng Kazahk.

Vị trí để dựng lều của người bộ tộc du mục Kazahk thường nằm trong thung lũng giữa các mỏm đồi, để tránh gió, tránh bão. Dù biết kinh nghiệm như vậy, chúng tôi có lần không đến được địa điểm trại vì thời tiết quá khắc nghiệt. Cả đoàn dừng lại sớm hơn, dựng lều ở trên vùng đất bằng phẳng giữa hoang mạc đầy tuyết trắng. Đêm hôm ấy, bão tuyết đánh sập chiếc lều đã gia cố chắc chắn, những chiếc gần đó cũng sập 1-2 thanh xà. Bên ngoài nhiệt độ chỉ khoảng âm 8 độ C, chúng tôi quấn chặt áo, mũ chạy ra dựng lại lều.

Đó chỉ là một trong những trải nghiệm của nhóm chúng tôi. Ngồi ở nhà lên kế hoạch theo bản đồ, chúng tôi tưởng tượng sẽ chạy đường xuyên đồi, trên lớp băng tuyết mỏng, nhìn ngắm thảo nguyên bao la của Mông Cổ. Những gì từng thấy qua sách báo, không giúp chúng tôi hình dung nổi sự khó khăn của hành trình.

Anh Nguyễn Quỳnh Anh chụp cùng người Kazakh, trên tay anh là thành quả của cuộc đi săn.

Anh Nguyễn Quỳnh Anh chụp cùng người Kazakh, trên tay anh là thành quả của cuộc đi săn.

Trước ngày khởi hành, tin tức về Covid-19 lan tràn trên mặt áo, khi ấy trong đầu chúng tôi nghĩ đến hủy chuyến hay đi tiếp. Kết quả sự hào hứng về vùng đất Thành Cát Tư Hãn vẫn thôi thúc chúng tôi lên đường. Giữa dịch bệnh, sân bay quốc tế Incheon (Hàn Quốc) nơi chúng tôi quá cảnh vắng lặng, chỉ vài du khách vật vờ. Rồi khi tới sân bay Ulaanbaatar, hành khách được thông báo ngồi yên tới 30 phút, những người mặc đồ bảo hộ trắng kiểm tra hộ chiếu, tờ khai y tế, đo thân nhiệt. Lúc này chúng tôi mới thật sự cảm nhận được sự căng thẳng của vấn đề. Sau tiếng rưỡi đồng hồ, hộ chiếu mới được đóng dấu, Dosjan, người làm Kazakh Tour vẫy tay chào chúng tôi, hành trình mới bắt đầu.

20 người lái xe off road từ thủ đô Ulaanbaatar tới khu bảo tồn thiên nhiên Altai Tavan Bogd ở cực tây xa xôi. Cung đường dài 2.000 km đưa 7 chiếc xe Land Cruiser băng qua những đỉnh núi phủ đầy tuyết trắng. Xung quanh chúng tôi chỉ toàn màu trắng xóa, chỉ duy nhất con đường nhiều xe cộ qua lại còn màu nâu, uốn lượn như tấm lụa trải tít chân trời. Nhưng càng tiến sâu về Altai Tavan Bogd, băng qua những hoang mạc thì con đường màu nâu ấy càng biến mất, chúng tôi đôi lần mất phương hướng, vừa đi vừa tìm đường.

Chúng tôi như chơi trò thú nhún khi xe đi qua lớp tuyết dày, chòng chành và đảo lắc liên hồi. Nhiều lần mũi xe vùi đầu vào tuyết, bánh xe quay tít thổi lên bụi trắng xóa mà không thể di chuyển, mấy con người cùng nhau hì hục đẩy, xe này kéo xe kia. Lạc đường, vỡ lốp chưa tồi tệ bằng vỡ két nước. Chúng tôi từng phải để một xe lại giữa đèo, trên độ cao 3.000 m và lạnh âm 35 độ C. Rời đi được một chút, quay mặt lại phía sau đã thấy chiếc xe bỏ lại bị phủ kín tuyết, không biết đoàn cứu hộ có thể tìm thấy nó không.

Nhiều lúc chúng tôi cũng thấy mình quá nhỏ bé, bất lực trước thiên nhiên khi đoạn đường lội bộ tuyết ngập sâu quá bắp chân. Gió lạnh cứ quật vào mặt rát bỏng, cảm giác không thể thở được, thỉnh thoảng phải ngừng đi để quay mặt tránh gió. Một người anh trong đoàn nói với tôi "Nhìn thấy chiếc xe, leo lên được là gần kiệt sức, gần quá ngưỡng chịu đựng của bản thân".

Nhưng khó khăn nào cũng được đền đáp. Trong hành trình, tới ngày thứ 3 sau khi lái xe qua thành phố Murun, chúng tôi thẳng tới thị trấn Tsaannuur, nơi sinh sống của những người chăn tuần lộc. Chụp ảnh, lùa đàn gia súc thấm mệt, chúng tôi sẽ qua đêm trong lều hình nón với lớp da thú bao quanh mà người nơi đây gọi là Teepees. Người chăn tuần lộc ở phía bắc Khovsgol được gọi là Dukha, Dukhans hoặc Duhalar. Đây là một trong những bộ tộc du mục cuối cùng của Mông Cổ, hiện chỉ còn khoảng 40 dòng họ với 1.500 người.
Trên một con đèo nối giữa Ulangom và Ulgii có một đoạn hồ đóng băng trơn nhãy. Cả nhóm chúng tôi dừng lại, thảnh thơi đạp xe. Một vài người đục lỗ câu hay thả lưới đánh bắt hồ băng linh thiêng của người Kazakh, bộ tộc du mục với truyền thống đi săn cùng chim đại bàng.

Tuyệt vời hơn, chúng tôi được trải nghiệm cùng người Kazahk ở khu bảo tồn thiên nhiên Altai Tavan Bogd. Trời đột ngột sầm sì, bão tuyết kéo đén, nhiệt độ xuống thấp nhanh chóng, những người đàn ông Kazahk gọi chúng tôi lên ngựa, để lùa đàn gia súc cả nghìn con về chuồng. Sự hiểu biết về thiên nhiên, phản ứng linh hoạt là đặc trưng vốn có của bộ tộc du mục này. Một năm họ sẽ di cư 4 lần, đưa đàn gia súc tới nơi nhiều cỏ cây tươi tốt hơn. Họ dựng lều ở những nơi kín gió và tối đến bên bếp lửa bập bùng, chúng tôi mặc kệ bên ngoài là bão tuyết, nhiệt độ xuống âm 30 độ C. Mở cửa lều bước ra ngoài, giữa bầu trời đêm đen kịt là lung linh nghìn ánh sao sáng, giống hệt với những gì tôi tưởng tượng.

Ngày cuối cùng, chúng tôi được theo họ đi săn. Thông thường họ săn vào ban đêm, còn ban ngày nhường lại cho những con đại bàng đã được huấn luyện. Người Kazahk cưỡi ngựa lên vùng núi cao, trên tay là đại bàng dũng mãnh đã được bịt mắt. Khi nhìn thấy cáo đằng xa, họ cởi bịt mắt cho những con đại bàng đuổi theo và vồ lấy con mồi, còn họ phi ngựa đuổi theo. Những tiếng rít xé tan không gian của đại bàng, sải cánh tự do thẳng lên bầu trời là ký ức tôi không bao giờ quên.

Nguyễn Quỳnh Anh

Chủ Nhật, 27 tháng 2, 2022

TIN BUỒN

 Được tin Thân Mẫu anh Nguyễn Thế Cường từ trần, xin gửi đến anh và gđ lời chia buồn sâu sắc.


Cầu mong linh hồn Cụ siêu thoát cõi Phật.


Nam mô A Di Đà Phật.



Trưởng Ban LL


TS Nguyễn Quế Côi

Thứ Năm, 24 tháng 2, 2022

14 năm motthoimongolia


 Cách nay 14 năm, ngày 22/02/2008, Motthoimongolia ra đời, đến nay, có gần 300k lượt bạn đọc ghé thăm.

Mục đích ban đầu của Blog là kết nối các sinh viên đã, đang và sẽ tham gia học tập tại đất nước Mông Cổ. Theo thời gian, nó đóng vai trò cầu nối cho quan hệ sinh viên, những người làm việc, sinh sống tại Mông Cổ, thông tin các hoạt động hữu nghị liên quan 2 nước, nhằm thắt chặt thêm quan hệ thân thiết giữa nhân dân 2 quốc gia.

Xin chân thành cám ơn các tổ chức, trong đó có Hội Hữu nghị Việt Nam - Mông Cổ, Đại Sứ quán VN tại MC, Hội người Việt Nam Tại Mông Cổ, và các cá nhân đã khích lệ, ủng hộ, cũng như đóng góp xây dựng trang blog. 

Hy vọng trong thời gian tới, blog sẽ tiếp tục là ngôi nhà cho các cựu sinh viên, và các sinh viên VN tại Mông Cổ, là một chiếc cầu nhỏ kết nối tình hữu nghị 2 nước.

Ban Biên tập. 

Ts.Batbayar: Lịch sử 100 năm của Mông Cổ và Nhật Bản

 

Ngày 24 tháng 2 năm 1972, quan hệ ngoại giao được thiết lập giữa Mông Cổ và Nhật BảnBức thư đã được B. Luvsanchultem, Đại sứ Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ tại Liên Xô và K. Niiseki , Đại sứ Nhật Bản tại Liên Xô, trao đổi tại Mátxcơva . Một hiệp định về quan hệ văn hóa được ký kết vào ngày 23 tháng 9 năm 1974 . 

 


Nhân kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Mông Cổ và Nhật Bản, chúng tôi đã trao đổi với Ts.Batbayar, Chủ tịch Hiệp hội Nghiên cứu Nhật Bản của Mông Cổ.

 

-Những nghiên cứu về tiếng Mông Cổ của Nhật Bản đang phát triển như là một một "ví dụ" về phát triển quan hệ 2 nước.  Là một trong số ít học giả chuyên về Nhật Bản học, xin ông cho biết,  mức độ phát triển của Nhật Bản học ở Mông Cổ như thế nào? Ông có thể chia sẻ câu chuyện về niềm yêu thích của mình về ngành Nhật Bản học không?

 

Tôi tốt nghiệp trường trung học số 14 ở Ulaanbaatar vào năm 1975, tốt nghiệp Đại học Leningrad của Liên Xô cũ năm 1981 với tư cách là nhà nghiên cứu Nhật Bản, và bắt đầu sự nghiệp của mình tại Học viện Khoa học Mông Cổ, nơi tôi đã làm việc 19 năm từ năm 1981 -1999. Năm 1993, tôi xuất bản tập sách nhỏ của mình, “Kodama, Mitsui, và tiếng Nhật trong Tu viện”, và bắt đầu là một học giả về Nhật Bản. Năm 1998, xuất bản cuốn “Mông Cổ và Nhật Bản trong nửa đầu thế kỷ 20” và năm 2012, cuốn “Mông Cổ và Nhật Bản trong thế kỷ 20”. Trong các cuốn sách này, các vấn đề như thiết lập quan hệ ngoại giao bình thường giữa hai nước đã được nêu ra mà không có bất kỳ tài liệu tham khảo nào.

 

Tôi đã lãnh đạo Hiệp hội Hữu nghị Mông Cổ-Nhật Bản vào giữa những năm 1990 và đóng góp vào việc tăng cường quan hệ hữu nghị song phương và hợp tác cộng đồng trong giai đoạn chuyển đổi khó khăn ở Mông Cổ vào những năm 1990. Từ năm 2007, tôi lãnh đạo Hiệp hội Nghiên cứu Nhật Bản của Mông Cổ, làm việc để phát triển các nghiên cứu Nhật Bản ở Mông Cổ, đào tạo các nhà nghiên cứu trẻ và trung niên, đồng thời tổ chức các hội thảo và hội nghị chuyên đề về nghiên cứu Nhật Bản hàng năm. Hai năm trước, với sự hỗ trợ của Quỹ Nhật Bản, một hội nghị chuyên đề lớn về “Ngoại giao nhân dân Mông Cổ-Nhật Bản và hợp tác phi chính phủ” đã được tổ chức tại Ulaanbaatar. Mỗi mùa xuân đều có các hội nghị khoa học về các chủ đề khác nhau. Một hội nghị đã được tổ chức vào năm 2013 về sóng thần ở Nhật Bản. Sau đó, vào năm 2007 và 2019, các cuộc họp đã được tổ chức và một báo cáo được xuất bản. 

 

-      Quan hệ Mông Cổ-Nhật Bản vào thời điểm đó thay đổi như thế nào khi xã hội ở nước ta thay đổi, và ông cảm thấy những thay đổi nào?

 

Theo tôi, người nghiên cứu muốn đề cập đến 3 yếu tố. Thứ nhất, Chính phủ và người dân Mông Cổ đã lựa chọn dân chủ và kinh tế thị trường một cách không thể hủy bỏ kể từ năm 1990 và quyết định đi theo con đường đó. Điều này đã tạo ra một tình thế hoàn toàn mới trong quan hệ song phương vốn chưa có từ năm 1972, đồng thời mở ra khả năng phát triển quan hệ song phương ở cấp độ “đối tác toàn diện” trên cơ sở các giá trị dân chủ chung. Đối với Nhật Bản, quá trình chuyển đổi dân chủ của Mông Cổ không chỉ làm gương cho hai nước láng giềng mà còn cho các chế độ chính trị khác ở châu Á, và kinh nghiệm cũng như cam kết của Mông Cổ đối với sự thành công của mô hình dân chủ đã được thể hiện rõ.

 

Thứ hai, chính sách "láng giềng thứ ba" của các nhà lãnh đạo Mông Cổ, bắt đầu từ đầu thế kỷ XX, tăng cường vào những năm 1990, với việc Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu, và coi Nhật Bản, trụ cột bên ngoài vững chắc thứ ba của chúng ta, cùng với hai nước láng giềng.

Thứ ba , có một yếu tố tâm lý khác không nên bỏ qua. Không giống như một số quốc gia ở Đông Nam Á, Mông Cổ chưa bao giờ bị Nhật Bản hoặc Nhật Bản xâm lược hoặc tàn bạo trong Chiến tranh thế giới thứ hai, và không có vấn đề gì về “tiền án lịch sử”.

 

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, họ quyết định mở rộng sự giúp đỡ khi đối mặt với những đau khổ của nền kinh tế Mông Cổ sau năm 1990, với các cửa hàng trống trải và sự gia tăng số lượng “trẻ em đường phố”.

 

- Ông từng là cố vấn và nhà ngoại giao tại Đại sứ quán tại Nhật Bản. Ông có thể chia sẻ một trải nghiệm ấn tượng?

 

Tôi gia nhập Bộ Ngoại giao Mông Cổ năm 1999 với chức vụ Vụ trưởng Vụ Chính sách "Bộ não" của Bộ, Phó Trưởng phái đoàn tại Đại sứ quán ở Bắc Kinh, và Đại sứ tại Cộng hòa Cuba. Anh ấy không làm việc tại Đại sứ quán Tokyo.

 

Tuy nhiên, trong nhiệm kỳ Vụ trưởng Vụ Chính sách của Bộ Ngoại giao các năm 2008-2009 và 2013-2014, tôi đã có nhiều chuyến thăm chính thức đến Tokyo và vào tháng 3 năm 2013, Mông Cổ đã chủ trì Tham vấn Chính sách Mông Cổ-Nhật Bản. L.Purevsuren, Cố vấn của Tổng thống Mông Cổ và Sugiyama Shinsuke, Giám đốc Bộ Ngoại giao Nhật Bản, cũng đã tham dự Cuộc họp Chính sách Đông Bắc tại Tokyo. Năm 2013, Bộ Ngoại giao Mông Cổ đã thay mặt Tổng thống Mông Cổ tham gia khởi động sáng kiến ​​“Đối thoại Ulaanbaatar”.

 

-Người dân nói rằng có rất nhiều điều để học hỏi từ người Nhật. Hãy cho ví dụ, đặc biệt là trong ngành ngoại giao là gì?

 

Con người Nhật Bản có rất nhiều đức tính tốt như chăm chỉ, dễ gần, trung thành với tình bạn, không gian dối, không quên mình, không khoan nhượng và trung thực. Các đại sứ như Hana Marohito, Shimizu Takenori, Kobayashi Hiroyuki, Hayashi Shinichi, và Varatani, những người đã và vẫn đang phục vụ tại Mông Cổ, cam kết thúc đẩy quan hệ Mông Cổ-Nhật Bản. Bản chất phấn đấu tạo ra đã là gương mẫu cho chúng tôi.

 

-Hãy nói về quan hệ Mông Cổ - Nhật Bản và nghiên cứu. Động lực để thành lập Hiệp hội Nghiên cứu Nhật Bản của Mông Cổ là gì?

 

Năm 2007, một nhóm chúng tôi, bao gồm các nhà nghiên cứu Nhật Bản, giáo viên và các tổ chức phi chính phủ, đã hợp tác thành lập Hiệp hội Nghiên cứu Nhật Bản của Mông Cổ. Tiến sĩ B.Serjav, E.Purevjav, Ts.Batbayar, U.Zagdtsem thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Mông Cổ, các giáo sư của Đại học Quốc gia Mông Cổ T.Munkhtsetseg, S.Dolgor, S.Battulga, các giáo sư của trường Đại học của Nhân văn Ts.Purevsuren, Ulaanbaatar Amgalan và S. Demberel và D. Tumurbaatar từ các tổ chức phi chính phủ khác là những người sáng lập trường. Mục đích là để hỗ trợ và phát triển nghiên cứu Nhật Bản ở Mông Cổ về mọi mặt, và quảng bá những thành tựu hàng đầu của Nhật Bản trong các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, văn hóa và giáo dục.

 

Trong thời gian qua, đã tổ chức hơn 10 hội nghị, hội thảo khoa học, thực hiện hai dự án hợp tác với Quỹ Nhật Bản của Nhật Bản và tổ chức hai hội thảo khoa học quốc tế. Ví dụ: “Văn hóa Nhật Bản: Truyền thống và Cải cách” năm 2007, “Chính trị, Kinh tế và Đối ngoại Nhật Bản” năm 2008, “Truyền thống và Cải cách của Hệ thống Giáo dục Nhật Bản” năm 2011, và “Tái thiết và Bài học Kinh nghiệm từ Khu vực Tohoku của Nhật Bản ”trong kinh nghiệm năm 2013”, hội nghị “Hợp tác văn hóa Mông Cổ-Nhật Bản” được tổ chức vào năm 2014, và các học giả, nhà nghiên cứu, giáo viên và sinh viên của chúng tôi đã thảo luận hàng chục bài thuyết trình và xuất bản kỷ yếu hội nghị hàng năm. Chúng bao gồm nội dung về trận động đất và sóng thần kinh hoàng năm 2011 ở vùng Tohoku của Nhật Bản.

 

-Ông hãy tóm tắt tầm quan trọng của Nhật Bản trong chính sách đối ngoại của Mông Cổ như thế nào? 

 

Khái niệm chính sách đối ngoại của Mông Cổ phản ánh các nguyên tắc quan trọng của “láng giềng thứ ba” và chính sách đối ngoại đa trụ cột. Chính sách “Nước láng giềng thứ ba” không chỉ là một tuyên bố, mà phải được hỗ trợ bởi các dự án kinh doanh hợp tác cụ thể và các khoản đầu tư thực sự. Một trong những "người hàng xóm thứ ba" như vậy chắc chắn là Nhật Bản.

 

Từ năm 1996, hai nước đã đạt được sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau về quan hệ chính trị, bình đẳng, thương mại cùng có lợi, hợp tác kinh tế, văn hóa giáo dục, khoa học và công nghệ, hợp tác nhân đạo sâu rộng, đối thoại chính trị, quốc phòng và an ninh. mở rộng “quan hệ đối tác toàn diện” trên bốn lĩnh vực chính: hợp tác trên trường quốc tế, bao gồm cả các tổ chức quốc tế.

Khi thế kỷ 21 đến gần, hai nước đã nhất trí tăng tần suất và nội dung hội đàm cấp cao, thúc đẩy quan hệ Đối tác toàn diện với Nhật Bản từ năm 1997 và phát triển thành "Đối tác chiến lược" vào năm 2010. Nhật Bản là “láng giềng thứ ba” quan trọng của nước ta. Ý nghĩa sẽ tăng lên.

 

-Có những điều gì chưa làm được trong 50 năm quan hệ ngoại giao?

 

Lợi thế của Mông Cổ là đây là một quốc gia mục vụ với truyền thống hàng thế kỷ. Các sản phẩm chăn nuôi sạch sinh thái của Mông Cổ, lao động chăn gia súc và sự gần gũi với thị trường thực phẩm của hai nước láng giềng lớn cần được phát triển thông qua quan hệ đối tác công tư giữa Mông Cổ và Nhật Bản để phát triển ngành công nghiệp nhẹ và thực phẩm để chế biến nguyên liệu cho chăn nuôi. Đặc biệt, điều quan trọng là phải thành lập một nhà máy chế biến da, len, len cashmere, thịt và sữa cao cấp, và sản xuất các thành phẩm tiên tiến. Trên cơ sở đó, chúng ta cần nỗ lực tận dụng tối đa các cơ hội lớn để tăng kim ngạch ngoại thương không chỉ giữa Mông Cổ với Nhật Bản mà còn giữa Mông Cổ với các nước láng giềng.

 

Vì mục tiêu này, dự án “Một ngôi làng, một sản phẩm”, phổ biến ở Nhật Bản, đã được thực hiện trong các mục tiêu Bayankhongor và Dornogovi của chúng tôi. Tôi nghĩ rằng cần phải truyền bá kinh nghiệm này và thực hiện dự án “một món, một sản phẩm” với nhiều mục đích và món ăn hơn. Ts.Batbayar

 

Đây sẽ là một bước đi bền vững hướng tới đa dạng hóa nền kinh tế Mông Cổ, tung ra các thương hiệu địa phương và “đa dạng hóa” chúng.

 

-Quan hệ giữa hai nước đã tăng cường trên nhiều lĩnh vực, bao gồm cơ sở hạ tầng, giáo dục và y tế. Theo ông nên phát triển những lĩnh vực nào khác?

 

Thỏa thuận đạt được năm 2010 nhằm phát triển quan hệ với Nhật Bản ở cấp độ "Đối tác Chiến lược" là một bước tiến quan trọng về mặt lịch sử. Theo tuyên bố chung của Mông Cổ và Nhật Bản nhằm thiết lập "quan hệ đối tác chiến lược", hai bên bày tỏ hài lòng về việc triển khai Kế hoạch Hành động Mông Cổ-Nhật Bản giai đoạn 2007-2017. Trong tương lai, chúng tôi sẽ tăng tần suất hội đàm cấp cao, tăng cường cơ chế tham vấn chính trị và thiết lập hợp tác chiến lược giữa Mông Cổ và Nhật Bản không chỉ trong lĩnh vực khai khoáng và khoáng sản, mà còn về năng lượng, cơ sở hạ tầng, chăn nuôi, nông nghiệp, tăng trưởng xanh và năng lượng tái tạo. Chúng tôi đã nhất trí mở rộng, tăng cường giao lưu văn hóa, giao lưu nhân dân và hợp tác trên các đấu trường khu vực và quốc tế.

 

-Chúng ta bắt đầu nói về nghiên cứu Nhật Bản. Tất nhiên, sẽ rất thú vị khi chia sẻ với tác giả những nét đặc trưng của ấn bản thứ hai của “Mông Cổ và Nhật Bản trong các thế kỷ XX-XXI: Lịch sử mối quan hệ láng giềng thứ ba”. Ngoài ra, cuốn sách này sẽ được xuất bản bằng tiếng Nhật chứ?

 

Cuốn sách mới nhằm làm nổi bật những nét đặc sắc của từng giai đoạn trong lịch sử hơn 100 năm của quan hệ hai nước. Chúng tôi hy vọng rằng nó sẽ là kim chỉ nam cho thế hệ trẻ học tiếng Nhật. Chúng tôi dự định dịch nó sang tiếng Nhật.

 

Điểm mới lạ của ấn bản thứ hai, xuất bản năm nay nhân kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao Mông Cổ-Nhật Bản, là nó nghiên cứu lịch sử quan hệ Mông Cổ-Nhật Bản trong thế kỷ 20 và 21 từ góc độ chính sách “láng giềng thứ ba” của Mông Cổ. Chắc chắn rằng những hiểu biết sâu sắc, suy ngẫm và bài học có ý nghĩa quan trọng trong chính sách đối ngoại của thế kỷ 21, trong chính sách và hoạt động quan hệ với Nhật Bản và các nước “láng giềng thứ ba” khác.

 

Tác giả chia quan hệ Mông Cổ - Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai thành 5 tiểu thời kỳ. Giai đoạn đầu tiên là để hai quốc gia sau chiến tranh hoàn toàn hiểu nhau và tìm ra giải pháp cho một số vấn đề phức tạp còn sót lại của lịch sử. Quá trình kéo dài để thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Mông Cổ và Nhật Bản kéo dài cho đến đầu những năm 1970 do một số vấn đề gây tranh cãi, bao gồm không khí  Chiến tranh Lạnh, các cuộc thanh toán chiến tranh và việc người Nhật Bản bị bắt giữ ở Mông Cổ. Những vấn đề này đã được đặt ra từ năm 1946, nhưng phải mất nhiều năm cả hai bên mới tìm ra giải pháp.

 

Lịch sử chính trị bình thường, quan hệ ngoại giao giữa hai nước từ năm 1960 đến năm 1972 không chỉ bao gồm tình hình chính trị trong nước của hai nước, mà còn cả tình hình quốc tế của Chiến tranh Lạnh, yếu tố Đài Loan, lập trường của Mỹ, và Nhật-Xô. Mông Cổ và Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức vào tháng 2 năm 1972. Lần đầu tiên trong thế kỷ XX, Mông Cổ và Nhật Bản công nhận lẫn nhau theo tiêu chuẩn quốc tế và độc lập về chính trị, kinh tế, văn hóa và giáo dục. Điều này đã tạo ra một môi trường rất thuận lợi cho sự phát triển của các mối quan hệ trong mọi lĩnh vực.



Mông Cổ có hai nước láng giềng vĩnh cửu. Nhật Bản  là nước láng giềng thứ ba của Mông Cổ kể từ năm 1990, một quốc gia có ảnh hưởng đến chính trường thế giới và ủng hộ các giá trị dân chủ của Mông Cổ. Nhật Bản, Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu, Đức, Ấn Độ và Hàn Quốc là những nước láng giềng quan trọng.



 

Mông Cổ quan tâm đến việc hỗ trợ các nhà nghiên cứu Nhật Bản như thế nào?

 

Quỹ Toyota đã tổ chức một hội nghị chuyên đề nhằm hỗ trợ thế hệ trẻ của các nhà nghiên cứu Nhật Bản người Mông Cổ, nhằm đào tạo các nhà nghiên cứu trẻ người Mông Cổ đang nghiên cứu về Nhật Bản. Chức năng này cần được khôi phục. Đã có kế hoạch tổ chức một hội nghị để hỗ trợ những người trẻ trong lĩnh vực nghiên cứu Nhật Bản, nhưng do đại dịch nên mọi hoạt động đều bị đóng cửa.

 

-Người ta dùng hàng Nhật nhiều hơn trước. Tuy nhiên, một số lượng nhỏ sản phẩm được xuất khẩu từ Mông Cổ sang Nhật Bản. Cơ hội để mở rộng nó là gì và chia sẻ suy nghĩ của ông về nó là gì?

 

Kể từ năm 1990, các nhà sản xuất của chúng tôi đã nỗ lực để xuất khẩu các sản phẩm mang thương hiệu quốc gia của chúng tôi sang Nhật Bản. Chúng tôi sản xuất một số lượng nhất định các sản phẩm cashmere và hắc mai biển (чацарган). Thịt ngựa được xuất khẩu với số lượng nhỏ. Khi đó, người Nhật đến và khuyên những người chăn nuôi nên cho ăn loại thức ăn nào và chế biến thịt như thế nào. Có thể có vấn đề với việc tiếp cận thực phẩm ở thị trường Nhật Bản, chẳng hạn như vệ sinh. Nhờ Hiệp định Đối tác Kinh tế, các sản phẩm bán lẻ của Nhật Bản đang được bán trong các cửa hàng của chúng tôi.

 

-Trong cuốn sách của mình, ông đã đề cập đến nhiều vị chức sắc đã tham gia vào quá trình phát triển quan hệ giữa hai nước. Ông có nghĩ sẽ rất thú vị khi tiếp tục những kỷ niệm đó trong cuộc phỏng vấn này ?

 

Người tốt liên quan đến Nhật Bản, thân thiện với Mông Cổ là T. Shimizu, K. Hanada và nhiều nhà ngoại giao Nhật Bản khác. Tôi có rất nhiều kỷ niệm đẹp về ngài T. Shimizu. Về phần mình, ông T.Shimizu thực sự lo ngại rằng xuất khẩu của Mông Cổ sẽ không tăng và nền dân chủ sẽ không hoạt động. Khi tôi trở về nhà, tôi thậm chí còn viết một bức thư nói rằng tôi muốn thứ này từ người Mông Cổ.

Hội nghị ngoại giao nhân dân của Mông Cổ và Nhật Bản đã được tổ chức và một bản tổng hợp đã được xuất bản về những người đã đóng góp cho quan hệ giữa hai nước. Phải kể đến nhà khoa học Nhật Bản Sakamato, Đại sứ K. Hanada và bác sĩ Kasugo Yukiyo được. Kasugo làm việc trong một bệnh viện quân sự và là một bác sĩ trong số những người Nhật bị bắt. Khi trở lại Nhật Bản, ông đã viết về những người bị giam giữ ở Mông Cổ, thăm hơn một chục khu chôn cất, dựng các bảng tưởng niệm và gần đây nhất là đóng góp vào việc thành lập khu liên hợp cống nạp quân sự của Nhật Bản. Vị này đã làm rất nhiều cho người Mông Cổ. Tại Nhật Bản, các khoản quyên góp tư nhân đã được thu thập và trại trẻ mồ côi Temuujin Sons được thành lập. Chương trình dành cho trẻ em ở  Mông Cổ trong những năm 90, Người ta nói rằng trung tâm được lấy cảm hứng từ Nhật Bản . Kasugo gắn bó với Mông Cổ suốt cuộc đời và qua đời năm 2010 ở tuổi 80.

 

Ngoài ra, P. Tserentsoodol, một trong những người đầu tiên góp phần thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước, đã ký hiệp định ngoại giao đầu tiên vào những năm 1960. Rất nhiều điều đã được hoàn thành nhờ nỗ lực của người đàn ông này. Trong cuộc hội đàm, Đại sứ K. Hanada cũng tham gia khi cô ấy còn nhỏ. Đại sứ tiếp theo S. Khurelbaatar, R. Jigjid và những người khác có liên quan đến mối quan hệ, cũng như "nhà ngoại giao nhân dân" DT Umurbaatar ,  được đưa vào cuốn sách "Mông Cổ và Nhật Bản trong thế kỷ XX-XXI: Lịch sử quan hệ láng giềng thứ ba " 

 

Cậu bé Mông Cổ hát về mẹ khiến triệu người bật khóc lột xác không ngờ sau 11 năm

 

Cậu bé “hoàng tử thảo nguyên” năm nào giờ đã lớn và có một cuộc sống hoàn toàn khác.

Vào năm 2011, trong chương trình China's Got Talent, một màn trình diễn của cậu bé Mông Cổ tên Uudam 12 tuổi đã trở thành hiện tượng nổi tiếng khắp nơi không chỉ tại Trung Quốc mà còn vang dội cả quốc tế.

Ca khúc Gặp Mẹ Trong Mơ đã được trình diễn với giọng hát vô cùng cảm động, tình cảm và da diết. Giọng hát của Uudam không chỉ chinh phục mọi khán giả, ban giám khảo mà còn khiến biết bao người bật khóc.

Cậu bé Mông Cổ hát về mẹ khiến triệu người bật khóc lột xác không ngờ sau 11 năm - 1

 

Cậu bé Mông Cổ vô danh ngay lập tức trở thành một ngôi sao vụt sáng trong đêm và được săn đón. Đó chính là Uudam, hay còn gọi là Ô Đạt Mộc, sinh ngày 9/9/1999.

Hoàn cảnh thực tế của Uudam sau đó còn làm công chúng càng thêm cảm động vì em là một cậu bé mồ côi cả cha lẫn mẹ. Nhiều năm trước, mẹ Uudam đã phải nằm liệt giường vì tai nạn giao thông rồi qua đời. Sau đó 2 năm, cha cậu bé cũng ra đi.

Cậu bé Mông Cổ hát về mẹ khiến triệu người bật khóc lột xác không ngờ sau 11 năm - 2

 

Uudam rất thương mẹ, mỗi lần thấy mẹ đau cậu đều giúp mẹ lau nước mắt rồi an ủi bà: "Để con hát cho mẹ nghe nhé, như thế sẽ không đau nữa". Và những câu hát da diết của Uudam đã khiến một người đàn ông mạnh mẽ như bố cậu và những người xung quanh đều không nén nổi nước mắt. Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng Uudam đã rất hiểu chuyện, hiểu chuyện đến mức khiến người ta đau lòng.

Mặc dù không giành giải quán quân trong chương trình năm ấy, nhưng gương mặt sáng và dáng vẻ đậm chất Hoàng tử trong truyện cổ tích đã giúp Uudam lưu lại ấn tượng sâu đậm trong lòng khán giả, thậm chí nhiều người còn gọi cậu là "Hoàng tử nhỏ trên thảo nguyên".

Cậu bé Mông Cổ hát về mẹ khiến triệu người bật khóc lột xác không ngờ sau 11 năm - 3

 

Thế nhưng không lâu sau, Uudam đối mặt với scandal lớn khi bị tố cáo đã hát nhép. Người thực sự hát là một ca sĩ nhí khác tên Ba Đặc Nhĩ. Sau đó, fan đã minh oan cho cậu bé bằng cách phân tích lại video chương trình, và cho rằng đội sản xuất đã chỉnh sửa giọng hát cho trong hơn, đạt hiệu quả hay hơn khi phát sóng mà thôi. 

Dù lao đao vì nghi vấn hát nhép, Uudam vẫn thực sự "đổi đời" sau chương trình China's Got Talent. Cậu được một cặp vợ chồng ca sĩ nổi tiếng người Mông Cổ nhận nuôi và có một cuộc sống tốt đẹp hơn hẳn trước.

Cậu bé Mông Cổ hát về mẹ khiến triệu người bật khóc lột xác không ngờ sau 11 năm - 4

 

Uudam nhận được vô số lời mời tham gia chương trình truyền hình, đi hát, phát hành nhạc,... liên tục. Cậu còn góp mặt trong một số bộ phim như The Man with Blue Dots (2011) và Night Blooming (2013).

Năm cấp 3, Uudam đã được bố mẹ nuôi cho sang Vancouver, Canada du học tại một ngôi trường danh giá để nhận nền giáo dục tốt nhất. Khi trưởng thành, ngoại hình của Uudam cũng được nhận xét là đã thay đổi khá nhiều. 

Cậu bé Mông Cổ hát về mẹ khiến triệu người bật khóc lột xác không ngờ sau 11 năm - 5

 

Uudam của hiện tại đã lớn. Cậu sở hữu một gương mặt điển trai, trưởng thành và chín chắn hơn. Chàng trai 23 tuổi vẫn đang theo học đại học tại Canada nhưng cậu thường xuyên về quê nhà hoạt động nghệ thuật song song.

Cậu bé Mông Cổ hát về mẹ khiến triệu người bật khóc lột xác không ngờ sau 11 năm - 6

 

Cậu bé Mông Cổ hát về mẹ khiến triệu người bật khóc lột xác không ngờ sau 11 năm - 7

 

Dẫu vậy, các sản phẩm âm nhạc của "hoàng tử thảo nguyên" đều không ghi được dấu ấn và tạo tiếng vang. Mọi người vẫn chỉ nhớ đến cậu vì hit đầu đời "Gặp mẹ trong mơ" 10 năm về trước.

Tuy nhiên, ở độ tuổi còn rất trẻ, những fan trung thành của Uudam vẫn chờ đợi và hy vọng chàng ca sĩ Mông Cổ sẽ có đột phá trong tương lai.

Cậu bé Mông Cổ hát về mẹ khiến triệu người bật khóc lột xác không ngờ sau 11 năm - 8

 

Cậu bé Mông Cổ hát về mẹ khiến triệu người bật khóc lột xác không ngờ sau 11 năm - 9

 

Cậu bé Mông Cổ hát về mẹ khiến triệu người bật khóc lột xác không ngờ sau 11 năm - 10

 

Cậu bé Mông Cổ hát về mẹ khiến triệu người bật khóc lột xác không ngờ sau 11 năm - 11

 

Chủ Nhật, 20 tháng 2, 2022

TIN CHIA BUỒN

 Được tin Cụ Thân sinh chị Hoàng Lệ Thúy từ trần, xin gửi đến chị và gia đính lời chia buồn sâu sắc nhất.



Cầu cho hương hồn Cụ siêu thoát Cõi Phật.


TM Hội Cựu SVVN tại MC


TS Nguyễn Quế Côi

Thứ Năm, 17 tháng 2, 2022

17 ngày rong ruổi Mông Cổ của nữ du khách Việt

 Chị Nguyễn Thu Tâm (ngoài 50 tuổi, Hà Nội) có chuyến đi đến thảo nguyên bao la vì một lời giới thiệu đó là vùng đất thiên nhiên chưa bị thay đổi.

Nhóm của chị Tâm có 12 người, khởi hành từ miền trung đất nước, xuống phía nam, vòng lên tây bắc rồi quay về thủ đô Ulanbataar. Tổng quãng đường đã đi là 3.500 km trong thời gian 17 ngày.

Đoàn của chị Tâm chụp ảnh bên hồ Trắng vào chiều tà. Ảnh: NVCC

Đoàn của chị Tâm chụp ảnh bên hồ Trắng vào chiều tà. Ảnh: NVCC

Mông Cổ có diện tích hơn 1,5 triệu km2 nhưng dân số thưa thớt, hơn 3,2 triệu người. Các điểm dân cư nằm cách xa nhau cả ngày đường. Do đó, du khách đều phải thuê xe riêng để tiết kiệm thời gian, thuận tiện đi lại. Nhóm chị Tâm thuê hai xe có lái là người địa phương cùng một hướng dẫn viên kiêm nấu nướng.

Thảo nguyên mênh mông, nên hai xe đôi khi bị lạc nhau do một số nơi bị mất sóng điện thoại. Do đó, họ thường phải dừng lại chờ nhau. Có lần xe chở chị Tâm bị xe chở hướng dẫn viên và đồ ăn để lạc mất, phải bỏ bữa trưa.

Cả nhóm đến Mông Cổ tháng 7/2019. Đây là thời điểm "đủ ấm để tắm hồ, đủ lạnh để đốt lửa nướng thịt, ngắm các loại hoa đua nở". Mỗi ngày đoàn chạy trung bình 300 km. Đường xấu, xe xóc, bụi bặm, nóng lạnh thất thường, nhưng bù lại gần 10 người luôn được mãn nhãn với những hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ lướt qua bên cửa kính. Điều đặc biệt gây ấn tượng là những cánh đồng hoa hoang dã muôn màu trải dài bất tận, đây đó lấp ló những con thú hoang như sóc, chuột, nhím...

Thỉnh thoảng cả xe lại ồ lên đòi dừng lại chụp hình: khi là một dải đồi xanh ngút mắt, điểm những mái nhà đủ màu tím hồng vàng đỏ. Quanh đó, từng đàn dê đen cừu trắng gặm cỏ, lúc là cả cánh đồng hoa cải vàng, hoa dại tím hồng hoặc trắng chạy dài tít tắp. Thích nhất là những khi gặp các dải hoa đồng nội đủ màu chen giữa cỏ xanh, thường có ở những hẻm núi, bên suối, ven hồ nên rất tiện để dừng chân nấu ăn, nghỉ ngơi.

Tuy nhiên, không phải loại cây nào cũng hiền hoà. Ngày đầu tiên khi đi vào một khe núi xanh tốt, chị Tâm đã gặp những cây bụi trông như ngải cứu, vừa động vào thì đau buốt như dao cắt, nhức nhối cả ngày.

Từng bị một cú ngã trời giáng, chị Tâm vẫn ấn tượng nhất chuyến cưỡi ngựa từ hồ Trắng lên thăm núi lửa. Ở đây, khách du lịch lên ngựa không phải chỉ để làm dáng chụp hình mà thực sự băng qua núi đồi và thảo nguyên, gần chục km, suốt một buổi chiều. Ngựa là loại bán hoang dã nên đó là một cuộc phiêu lưu khá mạo hiểm. Do ngã đau tưởng gãy xương nên chị đành bỏ dở chuyến đi, quay về lều. Chiều xuống, nhìn các bạn phi ngựa trở về trong hoàng hôn tuyệt đẹp mà chị tiếc suýt khóc.

Ngủ nghỉ

Đêm đầu tiên tại thủ đô Ulanbataar, nhóm ở trong một căn lều (ger) trên sân thượng của một nhà khách. 15 ngày tiếp, nhóm chỉ sống trong lều của dân du mục. Chỉ 2 đêm cuối về lại thủ đô là ngủ trong căn hộ kiểu Nga cũ.

Khi ở miền nam, giữa vùng sa mạc Gobi, ngủ trong lều tuy lạnh nhưng chưa cần phải đốt lò sưởi. Nhưng tiến dần lên phía bắc, thì ngay giữa mùa hè cả nhóm vẫn phải nhóm lò sưởi ấm ban đêm và tận dụng đặt nồi nước trên bếp lò để có nước ấm rửa mặt đánh răng. Gỗ thông cho vào cháy nỏ tàn nhanh, nên lúc còn thức thì nóng rực, nhưng đến giữa đêm, thường bị lạnh cóng. Do đó, nên mang thêm túi ngủ giữ ấm, ngoài chăn đệm có sẵn trong lều. Nhóm chị Tâm đã phải mua món đồ này khi qua cố đô Kharkhorin.

Ger là một phần không thể thiếu của nền văn hóa du mục. Những mái lều tròn màu trắng, toả khói lam chiều có lẽ là hình ảnh trữ tình nhất của miền đất này. Lều Mông Cổ cửa rất thấp, khoảng 1,2 m nên khách thường xuyên được thưởng thức món đặc sản "cộc đầu". Không ai trong đoàn thoát và không ngày nào không bị, thậm chí ngày va vài lần.

Lều là một khung gỗ tròn đường kính tầm 6-7 m, được ráp nối từ những thanh gỗ chuốt nhẵn sơn vẽ hoa văn đẹp mắt, mái lợp bạt, xung quanh chèn lông lạc đà ép, phía trong treo thảm hoặc quây bằng vải hoa để giữ ấm và trang trí. Trên nóc có cửa tròn lấy sáng và thông hơi. Khi mưa thì kéo tấm bạt phủ kín. Những căn lều chị nghỉ thường có 4-5 giường đặt vòng quanh. Trên vách thường treo hình Thành Cát Tư Hãn (người sáng lập Đế quốc Mông Cổ xưa). Giữa lều là bàn hoa văn sặc sỡ đặt giữa lều ngay cạnh lò sưởi nối với ống khói xuyên qua mái.

Tắm giặt

Các khu vực khác ngoài thủ đô (có nước máy đến tận nhà), người dân thường chứa nước vào các bể lớn, múc ra dùng dần. Ngoài thảo nguyên chỉ có thùng nước để ăn uống, hầu như không có nhà tắm. Hướng dẫn viên phải mua nước, phát cho mỗi người một chai để uống. Chị Tâm cũng chỉ có nửa lít nước mỗi ngày để vệ sinh cá nhân. Khoảng 3-4 ngày mới đến một thành phố có nhà tắm công cộng. Vé vào tắm nước nóng là 2.000-3.000 tuvgrok (24.000-26.000 đồng).

Chính vì nước khan hiếm mà các du khách Việt học cách tiết kiệm rất nhanh. Chỉ đến ngày thứ ba của chuyến đi, cả đoàn có thêm thói quen giữ lại vỏ chai, can nhựa để hứng nước từ nhà tắm công cộng, hồ nước... Nước suối ở đây rất trong, hai lái xe người địa phương thường dùng để uống.

Người Mông Cổ có ý thức bảo vệ nguồn nước và tiết kiệm nước. Họ có những hồ sạch đẹp, nước trong vì không bao giờ vứt rác hay đổ nước thải xuống hồ. Có chỗ như hồ Trắng chỉ cho phép tắm, chứ không cho giặt. Còn ở biển hồ Khovsgol chị Tâm chưa thấy ai tắm, dù dân nghỉ mát bên hồ rất đông. Phần lớn nhà vệ sinh hoặc nhà tắm (nếu có) đều ở trong rừng hoặc rất xa nguồn nước. Làm bẩn nguồn nước là điều tối kỵ.

Khung cảnh tuyệt đẹp nơi thảo nguyên Mông Cổ. Ảnh: NVCC

Khung cảnh tuyệt đẹp nơi thảo nguyên Mông Cổ. Ảnh: NVCC

Ăn uống

Thức ăn chủ yếu là thịt các loại cừu, dê, bò, ngựa, lạc đà hoặc các loại thú hoang dã, rau rất ít. Mấy ngày đầu, nhóm hào hứng hái rau dại bên đường, tối về định nấu ăn nhưng sau đó buộc phải bỏ đi vì không có nước rửa.

Mọi người thường ăn trưa trong các quán ven đường, và món đặc trưng là khushur (như bánh gối) hoặc buuz (loại bánh hấp nhỏ hơn) nhân thịt dê, cừu. Ngày đầu, du khách Việt ăn ngon lành nhưng những ngày tiếp theo bị ngán vì thiếu rau.

Buổi tối cả nhóm nấu ăn tại lều trại nên có dịp cùng gia chủ làm và ăn món đặc sản du mục Mông Cổ, thô sơ nhưng ấn tượng. Họ lột da con thú (dê hoặc chuột núi-marmot), để nguyên cả bộ lông, lấy thịt cắt ra từng khúc rồi nhồi lại vào bộ da vừa lột, cho thêm ít muối hoặc có thể cả khoai tây và hành tây, nhồi thêm mấy cục đá nướng đỏ vào trong cho thịt chín âm bên trong. Sau đó, họ khâu lại mang thui chín. Thịt làm nguyên con rồi làm chín theo cách này gọi là món boodog. Lần đó, nhóm gần chục người ăn nguyên cả con dê mấy chục cân. Ăn thịt thay cơm vẫn còn thừa quá nửa.

Đồ uống đặc trưng là kumis (rượu sữa ngựa), được uống bằng bát. Chị Tâm được tham dự lễ hội Nadaam (lễ hội quốc gia lớn nhất Mông Cổ diễn ra vào trung tuần tháng 7) ở một thị trấn nhỏ. Tại đây, chị được uống kumis và nhớ mãi vị chua gắt mà các vị bô lão hiếu khách đã mời. Chị cũng có dịp chứng kiến các cuộc thi cưỡi ngựa, đấu vật, bắn cung... trong lễ hội. Đây là ba môn thể thao được coi là tỏ rõ khí chất nam nhi nhất xứ thảo nguyên.

Điểm tham quan

Biểu tượng nổi tiếng nhất hiện nay của Mông Cổ chính là bức tượng khổng lồ đặc tả Thành Cát Tư hãn trên mình ngựa. Bức tượng khổng lồ này cao 40 m, được đặt trên bệ là một ngôi nhà tròn đường kính 36 m, cao 10 m có 36 cột tượng trưng cho 36 đời Khả hãn (vương) tiếp sau Thành Cát. Ngôi nhà làm bệ này cũng đồng thời là Bảo tàng về lịch sử Mông Cổ từ thời đại đồ đồng đến thời Hung Nô...

Tượng Thành Cát Tư Hãn được làm từ 300 tấn thép không gỉ. Ảnh: NVCC

Tượng Thành Cát Tư Hãn được làm từ 300 tấn thép không gỉ. Ảnh: NVCC

Trong thân ngựa có thang máy và thang bộ dẫn lên đầu ngựa. Vị trí bờm ngựa có sân nhỏ để du khách có thể ra ngắm toàn cảnh thảo nguyên mênh mông. Khu Tổ hợp này nằm cách Thủ đô 54km về phía đông, đây là nơi tương truyền Thiết Mộc Chân (tên thời trẻ của Thành Cát Tư hãn) đã nhặt được chiếc roi ngựa - biểu tượng của thành công.

Trong bảo tàng hiện nay ngay ở sảnh chính có đặt cây roi ngựa bằng vàng. Và vì nó đã trở thành một kỳ quan của đất nước này nên nhóm chị đã dành hẳn một ngày cuối cùng đến thăm trước khi rời xứ sở thảo nguyên và sa mạc.

Chi phí

- Hành trình kéo dài 17 ngày: trong đó có 14 ngày thuê xe + ăn ở + guide trọn gói. Giá 52 USD/ngày/ người.

- Vé bay mua của Koreanair, bay qua Incheone, giá 900 USD một người. Khi nối chuyến, nhóm tranh thủ thời gian bắt xe vào tham quan thủ đô Seoul và vùng lân cận.

- Tiền ăn ở 3 ngày ở thủ đô, thuê xe đi thăm khu tượng đài Thành Cát Tư hãn, gần 100 USD một người.

- Tiêu vặt dọc đường, mua đồ lưu niệm: 100 USD.

- Tổng tiền trọn gói: 1.800 USD một người.

Từ ngày 14/2, Mông Cổ mở cửa cho khách du lịch quốc tế. Điều kiện nhập cảnh là cần tiêm hai mũi vaccine. Chính sách này áp dụng với hành khách đi bằng đường hàng không, chưa áp dụng với đường bộ, ít nhất đến hết 31/3. Khi đến sân bay, du khách cần xuất trình thêm giấy xét nghiệm PCR âm tính.

Phương Anh

Chào mừng các bạn đến với MỘT THỜI MONGOLIA ĐỂ NHỚ

Chụp ảnh kỷ niệm những người đang sinh sống tại Tp Hồ Chí Minh nhân Quốc khánh Mongolia 1993 (từ trái qua: Bình, Hoàng, Hạnh, Đại, Tý, Việt, Đạt, Huân)