Tổng số lượt xem trang

Trang

Chào mừng các bạn đến với "Motthoimongolia"





Số người online -----


web trends

Thứ Bảy, 28 tháng 10, 2023

Đại tướng Phan Văn Giang thăm trường học mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Mông Cổ

 

Trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Mông Cổ từ ngày 25 đến ngày 27-10, ngày 25-10, Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cùng Đoàn đại biểu cấp cao Bộ Quốc phòng Việt Nam đã tới thăm Trường liên cấp số 14 mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh ở thủ đô Ulan Bator và đặt vòng hoa tại tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khuôn viên nhà trường.

Đại tướng Phan Văn Giang thăm trường học mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Mông Cổ
Các em học sinh chào mừng Đại tướng Phan Văn Giang đến thăm Trường liên cấp số 14.

Trường liên cấp số 14 được thành lập năm 1949, là một trong những cái nôi đào tạo nhân tài cho đất nước Mông Cổ. Nhân kỷ niệm 90 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 14-5-1980, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ đã ra quyết định cho phép Trường liên cấp số 14 được mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Quyết định này là một dấu son trong lịch sử phát triển của nhà trường. Đến nay, Trường liên cấp số 14 đã trở thành một biểu tượng của quan hệ hữu nghị, đoàn kết, gắn bó giữa Việt Nam - Mông Cổ.

Đại tướng Phan Văn Giang thăm trường học mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Mông Cổ
Đại tướng Phan Văn Giang tham quan Phòng truyền thống Hồ Chí Minh của nhà trường. 
Đại tướng Phan Văn Giang thăm trường học mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Mông Cổ
Đại tướng Phan Văn Giang ghi sổ lưu niệm tại Trường liên cấp số 14. 
Đại tướng Phan Văn Giang thăm trường học mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Mông Cổ
Đại tướng Phan Văn Giang trao bức chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng nhà trường. 

Năm 2009, tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh được xây dựng trong khuôn viên của trường và vào năm 2017, Phòng truyền thống Hồ Chí Minh đã được khánh thành. Tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng đồng, cao 1,7m, đặt trên bệ cao 3,33m. Tại đây, Đại tướng Phan Văn Giang cùng Đoàn đại biểu cấp cao Bộ Quốc phòng Việt Nam đã đặt vòng hoa, tưởng nhớ công lao to lớn của Người.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm Mông Cổ năm 1955, cùng các nhà lãnh đạo Mông Cổ đặt nền móng cho quan hệ hữu nghị bền chặt giữa Việt Nam và Mông Cổ.

Hằng năm, lễ tốt nghiệp ra trường cho học sinh được tổ chức vào ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5). Nhà trường cũng thường xuyên tổ chức các cuộc thi viết, vẽ, tìm hiểu về Lãnh tụ Hồ Chí Minh, về đất nước, con người Việt Nam.

Cảm ơn những tình cảm nhà trường dành cho đoàn, Đại tướng Phan Văn Giang chúc các thầy cô giáo và các em học sinh dạy tốt, học tốt, góp phần xây dựng đất nước Mông Cổ ngày càng tươi đẹp, trở thành cầu nối, không ngừng phát triển mối quan hệ hữu nghị, gắn bó giữa Việt Nam và Mông Cổ.

Đại tướng Phan Văn Giang thăm trường học mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Mông Cổ
Đại tướng Phan Văn Giang cùng Đoàn đại biểu cấp cao Bộ Quốc phòng Việt Nam đặt vòng hoa tại tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khuôn viên nhà trường. 

* Cũng trong ngày 25-10, Đại tướng Phan Văn Giang cùng Đoàn đại biểu cấp cao Bộ Quốc phòng Việt Nam đã đến thăm Đại sứ quán Việt Nam tại Mông Cổ.

Đại tướng Phan Văn Giang bày tỏ mong muốn trong thời gian tới, các cán bộ, nhân viên Đại sứ quán Việt Nam tại Mông Cổ tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, sáng tạo, đề cao trí tuệ tập thể, thực hiện tốt nhiệm vụ Đảng, Nhà nước giao, góp phần vun đắp mối quan hệ hữu nghị truyền thống Việt Nam - Mông Cổ.

Đại tướng Phan Văn Giang thăm trường học mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Mông Cổ

Đại tướng Phan Văn Giang trao đổi với Đại sứ Việt Nam tại Mông Cổ Doãn Khánh Tâm 

* Ngày mai (26-10), sau lễ đón chính thức được tổ chức tại trụ sở Bộ Quốc phòng Mông Cổ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang sẽ có cuộc hội đàm quan trọng với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mông Cổ Gursediin Saikhanbayar và tới chào xã giao Tổng thống Mông Cổ Ukhnaagiin Khurelsukh.

Tin, ảnh: THU TRANG (từ Ulan Bator, Mông Cổ)

Thứ Sáu, 27 tháng 10, 2023

Tổng thống Mông Cổ sắp thăm Việt Nam

 

Đây là chuyến thăm cấp nhà nước Việt Nam đầu tiên của một tổng thống Mông Cổ sau 10 năm, diễn ra ngay trước thềm kỷ niệm 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao.

Tổng thống Mông Cổ Ukhnaagiin Khurelsukh - Ảnh: REUTERS

Tổng thống Mông Cổ Ukhnaagiin Khurelsukh - Ảnh: REUTERS

Theo thông cáo ngày 27-10 của Bộ Ngoại giao, Tổng thống Mông Cổ Ukhnaagiin Khurelsukh và phu nhân sẽ thăm cấp nhà nước Việt Nam từ ngày 1 đến 5-11.

Chuyến thăm diễn ra theo lời mời của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng và phu nhân, ngay trước dịp hai nước kỷ niệm 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (1954 - 2024).

Ông Ukhnaagiin Khurelsukh từng thăm Việt Nam trên cương vị Tổng thư ký Đảng Nhân dân Mông Cổ vào tháng 1-2010.

Vào tháng 5-2023, nhân dịp cùng đến Anh dự lễ đăng quang Vua Charles III, Tổng thống Ukhnaagiin Khurelsukh đã gặp gỡ Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng.

Tổng thống Ukhnaagiin Khurelsukh là người có tình cảm với Việt Nam. Ông đã tích cực thúc đẩy thiết lập khuôn khổ quan hệ mới với Việt Nam khi trên cương vị phó thủ tướng và thủ tướng Mông Cổ.

Lần gần đây nhất một tổng thống Mông Cổ thăm cấp nhà nước Việt Nam là vào tháng 11-2013.

Việt Nam và Mông Cổ có quan hệ hữu nghị truyền thống, thường xuyên giúp đỡ và ủng hộ lẫn nhau kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao.

Mông Cổ luôn coi Việt Nam là đối tác quan trọng ở khu vực Đông Nam Á cũng như khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Do nhiều nguyên nhân khách quan, nhất là về địa lý và vận tải, hợp tác kinh tế - thương mại Việt Nam và Mông Cổ duy trì ở mức khiêm tốn.

Tính đến tháng 11-2019, Mông Cổ có ba dự án đầu tư tại Việt Nam, đứng thứ 96/126 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng giá trị đạt 1,1 triệu USD.

Hai bên đang nỗ lực mở rộng các mặt hàng hai nước có thế mạnh như các mặt hàng nông, thủy sản, tiêu dùng của Việt Nam và các sản phẩm thịt gia súc, da giày của Mông Cổ.

Chuyến thăm của Tổng thống Ukhnaagiin Khurelsukh lần này được kỳ vọng sẽ củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai nước, đề ra những định hướng quan trọng cho các hoạt động kỷ niệm 70 năm thiết lập quan hệ vào năm 2024.

Mông Cổ - 1 trong 10 nước giàu khoáng sản nhất thế giới

Đất nước Mông Cổ thuộc khu vực Trung Á, có diện tích hơn 1,56 triệu km2 nhưng dân số chỉ hơn 3,4 triệu người. Kinh tế Mông Cổ chủ yếu dựa vào ngành khai khoáng và chăn nuôi đồng cỏ tự nhiên.

Đây là 1 trong 10 quốc gia có nguồn khoáng sản giàu nhất thế giới, với các khoáng sản chính là đồng, than đá, vàng, nhôm, uranium… Hiện ngành khai thác khoáng sản chiếm trên 50% GDP của Mông Cổ.

Món quà đặc biệt Bộ trưởng Quốc phòng Mông Cổ trao tặng Đại tướng Phan Văn Giang

 

Bộ trưởng Quốc phòng Mông Cổ trao ngựa tặng Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phan Văn Giang. Đây là nghi lễ truyền thống của các bộ tộc Mông Cổ đối với khách quý.

Bộ trưởng Quốc phòng Phan Văn Giang vừa có chuyến thăm chính thức Mông Cổ theo lời mời của Bộ trưởng Quốc phòng Mông Cổ. 

Quan hệ hữu nghị truyền thống, gắn bó từ lâu đời giữa Việt Nam và Mông Cổ được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Sedenban cùng thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước dày công vun đắp và đang ngày càng phát triển vững chắc, đạt hiệu quả thiết thực.

Nhân dân Việt Nam và nhân dân Mông Cổ luôn ủng hộ lẫn nhau trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.

image019.jpg
Bộ trưởng Quốc phòng Mông Cổ trao tặng ngựa cho Bộ trưởng Phan Văn Giang. Ảnh: Bộ Quốc phòng

Ngày 26/10, trong cuộc tiếp Bộ trưởng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Quốc phòng Mông Cổ Gursediin Saikhanbayar khẳng định Việt Nam có vị trí đặc biệt quan trọng trong chính sách đối ngoại của Mông Cổ.

Mông Cổ luôn coi trọng phát triển quan hệ với Việt Nam, coi Việt Nam là cầu nối phát triển quan hệ với các nước ở khu vực ASEAN, đồng thời là đối tác quan trọng ở khu vực.

Đại tướng Phan Văn Giang khẳng định, Việt Nam kiên trì thực hiện chính sách quốc phòng “4 không” và đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, ưu tiên cao cho việc phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước bạn bè truyền thống, trong đó có Mông Cổ.

Hai bên cùng thống nhất đánh giá, thời gian qua, trên cơ sở sự tin cậy, hiểu biết và ủng hộ lẫn nhau, Bộ Quốc phòng hai nước đã phối hợp triển khai hiệu quả nhiều nội dung hợp tác.

Thời gian tới, hai bên nhất trí tiếp tục nỗ lực triển khai hợp tác hiệu quả, thực chất trên nhiều lĩnh vực như: duy trì tiếp xúc cấp cao và giao lưu các cấp; công nghiệp quốc phòng; đào tạo; quân y, văn hóa nghệ thuật, thể thao quân sự và trao đổi kinh nghiệm tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc.

Bộ trưởng Phan Văn Giang và Bộ trưởng Gursediin Saikhanbayar cũng đã chia sẻ đánh giá về tình hình thế giới, khu vực và các vấn đề cùng quan tâm.

Sau hội đàm, Bộ trưởng Phan Văn Giang và Bộ trưởng Gursediin Saikhanbayar đã chứng kiến ký thỏa thuận về trao đổi đoàn giữa Bộ Quốc phòng hai nước

Bộ trưởng Quốc phòng Mông Cổ trao ngựa tặng Bộ trưởng Phan Văn Giang. Đây là nghi lễ truyền thống của các bộ tộc Mông Cổ đối với khách quý. Bộ trưởng Gursediin Saikhanbayar cũng mời Bộ trưởng Phan Văn Giang thăm quan Nhà lều truyền thống của Quân đội Mông Cổ.

Bộ trưởng Phan Văn Giang cũng đã gặp Tổng thống Mông Cổ Ukhnagiin Khurelsukh. Trong gần 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, hai nước luôn luôn ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau. Tổng thống Ukhnagiin Khurelsukh mong muốn thời gian tới, quan hệ hai nước sẽ phát triển lên tầm cao mới.

image003.jpg
Tổng thống Mông Cổ và Đại tướng Phan Văn Giang. Ảnh: Bộ Quốc phòng Mông Cổ

Bộ trưởng Phan Văn Giang bày tỏ tin tưởng chuyến thăm của Tổng thống Mông Cổ tới Việt Nam vào đầu tháng 11 sẽ thành công tốt đẹp. Chuyến thăm có ý nghĩa quan trọng khi năm 2024 hai nước sẽ kỷ niệm 70 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao.

Tổng thống Mông Cổ Ukhnagiin Khurelsukh ấn tượng và dành tình cảm tốt đẹp về đất nước, con người Việt Nam; cam kết sẽ vun đắp mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước, quan tâm lãnh đạo thúc đẩy quan hệ quốc phòng Việt Nam và Mông Cổ.

Tổng thống khẳng định sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất để Bộ Quốc phòng Mông Cổ cùng Bộ Quốc phòng Việt Nam đưa hợp tác đi vào chiều sâu, tương xứng với khuôn khổ hợp tác giữa hai nước

Thứ Sáu, 20 tháng 10, 2023

Bảng xếp hạng 61 trường đại học Mông Cổ được công bố


 
Bộ Giáo dục và Văn hóa, Trung tâm đánh giá giáo dục, Viện nghiên cứu chất lượng Giáo dục MC vừa công bố Top10 (trong số 61 trường) đại học tốt nhất MC, như sau:

1) ĐH Quốc gia MC;

2) Đại học Y

3) ĐH Khoa học và Công nghệ

4) ĐH Sư phạm

5) ĐH Nông nghiệp

6) ĐH Địa chất

7) ĐH Tài chính Kinh tế

8) ĐH Otgontenger

9) ĐH Dược Monos

10) ĐH Văn hóa Nghệ thuật



Thứ Tư, 18 tháng 10, 2023

Tổng thống Mông Cổ U. Khurelsukh tham dự Diễn Đàn Vành đai - Con đường tại TQ

 


BẮC KINH, 
ngày 18 tháng 10 năm 2023 /kommersant /. Trong ngày 18/10/2023, Tổng thống MC có các cuộc gặp song phương với lãnh đạo nhiều nước.


Tổng thống Mông Cổ Ukhnaagi Khurelsukh đã gặp Tổng thống Nga Vladimir Putin tại Trung Quốc.


Trong cuộc gặp, nhà lãnh đạo Nga bày tỏ hy vọng việc xây dựng đường ống dẫn khí đốt "Sức mạnh Siberia-2" qua Mông Cổ tới Trung Quốc " sẽ được tiến hành với tốc độ nhanh chóng". Ông nói: “Có nhiều dự án quan trọng giữa hai nước chúng ta. Một trong số đó là dự án đường ống cung cấp khí đốt tự nhiên qua Mông Cổ đến Trung Quốc. Tất cả các bên đã nhất trí về dự án này. Bây giờ tất cả những gì còn lại là việc thực hiện”.


V.  Putin cũng chỉ ra rằng năm ngoái kim ngạch thương mại giữa hai nước tăng 40 % nhưng năm nay lại giảm nhẹÔng nói: “ Ủy ban liên chính phủ nên  quan tâm đúng mức đến vấn đề này ”. 



Tổng thống MC đã gặp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, Chủ tịch nước Việt Nam Võ Văn Thưởng, Thủ tướng Hungary Viktor Orbán và Thủ tướng Thái Lan Settha Thavisin.  

Thứ Ba, 17 tháng 10, 2023

“Nga là bảo chứng cho nền độc lập của Mông Cổ” là sai lầm(*)



 1) Đấu tranh cho một quốc gia độc lập 

 
Vào thế kỷ 17, khi các tỉnh phía Nam Mông Cổ nằm dưới sự cai trị của vua Mãn Châu và ảnh hưởng của người Mãn Châu trở nên hiện thực ở Mông Cổ, Setsen Khan Sholoy của Khalkh, Tusheet Khan Gombodorj, Zasagt Khan Subadai, Hoàng tử Erdenebaatar của Dzhungar, và Goosh Khan của Khoshudin đã truyền bá tôn giáo Sharia ở Mông Cổ và mang lại sự đoàn kết tinh thần của người Mông Cổ, áp dụng chính sách tăng cường đoàn kết bằng cách phối hợp quan hệ giữa họ.
 
 
Bằng chứng chính của nó là cuộc họp năm 1640 của Khalkh Oirad, nơi đã thông qua một văn bản pháp lý có tên là "Bốn mươi bốn cuộc hành quyết vĩ đại". Ngoài ra, vào năm 1639, Zanabazar, con trai năm tuổi của Tusheet Khan Gombodorji, được vinh danh là người đứng đầu tôn giáo của Khalkh Mông Cổ.
 
 
Tuy nhiên, các hoàng tử có ảnh hưởng kể trên qua đời gần như cùng lúc (Setsen Khan Sholoy năm 1652, Tusheet Khan Gombodorj và Goosh Khan Torbayh năm 1655, Hoàng tử Erdenebaatar năm 1660) và những người kế vị họ không thể tiếp tục các chính sách của cha mình, dẫn đến việc Mông Cổ mất độc lập. Đó là một bước ngoặt lớn. Có một câu chuyện bi thảm về Tusheet Khan Chakhundorj của Khalkh và Galdan Boshit của Dzhungar, Galdan Boshit đến Khalkha và 20.000 binh sĩ của Tusheet Khan bị tàn sát Kết quả là các hoàng tử của Khalkh đã trốn thoát khỏi Galdang cùng với thần dân của họ và đi đến phía nam Mông Cổ và cầu cứu vua Mãn Châu. Vua Mãn Châu trả lời rằng ông có thể giúp đỡ nếu đầu hàng, và các hoàng tử Khalkh quyết định quy phục Mãn Châu tại hội nghị Ar Elstein năm 1689. Đồng thời, người Mông Cổ ở Buria ở phía bắc Mông Cổ chấp nhận quyền của hoàng đế Nga và chấp nhận nộp thuế cho Nga.
 
Trước đây, người Mông Cổ Buriad tránh nộp thuế cho Nga với lý do nộp thuế cho các hoàng tử Khalkh, nhưng người Mông Cổ Khalkh đang tự vệ trước Nga đã bị quân Oirad đánh bại nên buộc phải công nhận quyền lợi của người Nga. Vào năm 1691, một buổi lễ lớn đã được tổ chức tại Dolonnuur để chấp nhận Khalkh Mông Cổ là một phần của nhà nước Mãn Châu. Do đó, Mông Cổ Khalkh mất độc lập vào năm 1691.
 
Trong suốt 130 năm trị vì của các vị vua Mãn Châu từ những năm 1620 đến 1755, nền độc lập của Mông Cổ đã bị mất hoàn toàn. Vào thời điểm này, người Mông Cổ công nhận chủ quyền của vua Mãn Châu, và các quý tộc Mông Cổ phục tùng ông ta đã nhận được địa vị của vua Mãn Châu, và bắt đầu nhận lương hàng năm dựa trên địa vị tương ứng của họ. Các hoàng tử Mông Cổ do đó đã trở thành chư hầu của vua Mãn Châu. Không hề có sự áp bức của người Mãn Châu ở Mông Cổ. Người Mãn Châu chưa bao giờ thu thuế từ người dân bằng cách triển khai một số lượng lớn binh lính ở Mông Cổ. Mông Cổ nằm dưới ảnh hưởng của Mãn Châu. Mãn Châu và Mông Cổ là các nước đồng minh. Mông Cổ không có quyền độc lập trong quan hệ đối ngoại. 

Cuộc đấu tranh giành độc lập của người Mông Cổ phát triển mạnh mẽ vào đầu thế kỷ 20, ngày 29/12/1911, Bogd Khan tuyên bố Mông Cổ là một quốc gia độc lập với một nhà nước Mông Cổ thực sự. Những người Mông Cổ đã hy sinh mạng sống của mình cho Mông Cổ, bao gồm Bogd Khan, Nam tước Tướng quân, Chin Van Khanddorj, Cựu Thủ tướng Namnansuren, Da Lama Tserenchimed, nhà yêu nước Nội Mông Togtoh Taij, Công tước Haisan, Vua lãnh đạo J.Damdinsuren, Udayan, Hiệp sĩ chính nghĩa Bavuujav Chúng ta không nên quên tên của công tước, Demchigdonrov van, công tước Gonchigsuren, và Sumya.
 
2) Hãn quốc Bogd Mông Cổ
 
Vào đầu thế kỷ 20, quyền lực của nhà nước Mãn Thanh suy giảm và cuối cùng bị diệt vong. 
  
Lúc này, các vị thánh Bogd và các hoàng tử Mông Cổ bắt đầu xóa bỏ ách thống trị của Mãn Châu. Ngày 29 tháng 12 năm 1911, Vương quốc Bogd được thành lập và tách biệt hoàn toàn khỏi Mãn Châu. Vào năm 1911-1912, một số ít binh lính Amban và Mãn Châu ở thủ đô Khuree, Uliastai và Hovd đã bị quân đội của Hãn quốc Bogd của Mông Cổ đuổi ra khỏi đất nước, sau đó hành quân đến Haalgan trong chiến dịch giải phóng Nội Mông.

Tuy nhiên, do áp lực từ Nga và Trung Quốc, Chiến tranh "Năm con đường" đã bị dừng lại và quân Mông Cổ buộc rút khỏi Nội Mông. Do đó, Nội Mông không thể sáp nhập vào Hãn quốc Bogd của Mông Cổ. Tên chính thức của Hãn quốc Bogd của Mông Cổ là "Mông Cổ Đại đế", "Mông Cổ Uls"

Vì tên Mông Cổ, được thành lập với sự ủng hộ chung của tất cả người Mông Cổ bao gồm Buriad, Khalkh, Oirad và Tây Mông Cổ, có nghĩa là một quốc gia sẽ cai trị tất cả người Mông Cổ, nên Nga phản đối mạnh mẽ cái tên này. Mỹ và các nước châu Âu không công nhận việc thành lập Mông Cổ và tin rằng việc ủng hộ Trung Quốc sẽ có lợi hơn. Mỹ khuyên Nga phản đối nền độc lập của Mông Cổ, vì có nguy cơ nếu Mông Cổ độc lập, người dân Trung Á sẽ nổi dậy và ly khai như người Mông Cổ và hủy diệt thuộc địa thế giới. Sazanov, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Đế quốc Nga, đã xây dựng chính sách của mình đối với Mông Cổ là "không củng cố quốc gia châu Á hùng mạnh về quân sự ở biên giới Đế quốc Nga." 
 
 
Nhìn chung, Nga và Trung Quốc thực hiện chủ trương không thống nhất Nội Mông và Ngoại Mông, không biến Mông Cổ thành một cường quốc kinh tế - quân sự, giữ nước này yếu kém và kém phát triển trong nhiều thế kỷ. Họ đã thực hiện chính sách độc hại này. Năm 1915, Mông Cổ trở thành một quốc gia tự trị (tự quản) bên trong Trung Quốc dưới áp lực của Nga và Trung Quốc.
 
 
Năm 1919, quân Trung Quốc chiếm Khure, thủ đô của Ngoại Mông và phá hủy quyền tự trị của vùng này. Trong hoàn cảnh khó khăn này, Bogd Khan đã thực hiện mọi biện pháp cần thiết để giải phóng đất nước của mình khỏi đội quân tàn ác. Theo yêu cầu của Bogd Khan, Nam tước Ungern đưa quân vào Mông Cổ và giải phóng thủ đô Khure khỏi quân đội TQ vào tháng 2 năm 1921. Bogd Khan khôi phục Mông Cổ. Tuy nhiên, một số thành viên của Đảng Nhân dân Mông Cổ đã đưa 15.000 lính Nga Đỏ vào Mông Cổ và phá hủy nhà nước Mông Cổ vào tháng 7 năm 1921, thay thế bằng một chính phủ Cộng sản phụ thuộc vào nhà nước Xô Viết. Sau đó, ngày 26/11/1924, Hiến pháp đầu tiên được thông qua, chế độ quân chủ bị bãi bỏ, đất nước trở thành một nước cộng hòa với chính phủ kiểu Xô Viết. Sau Thế chiến thứ hai, nhờ kết quả của Hội nghị Yalta năm 1945, nền độc lập của Mông Cổ được Liên Xô và Trung Quốc chính thức công nhận, nền độc lập của Mông Cổ được quốc tế bảo đảm hoàn toàn. Tuyên bố độc lập của Mông Cổ đã làm nảy sinh một vấn đề gây tranh cãi rất lớn gọi là " vấn đề Mông Cổ" giữa các cường quốc quan tâm đến khu vực.
 
Đế quốc Nga và Nhật Bản đã xác định lợi ích của họ ở Mông Cổ và Mãn Châu trong các hiệp ước bí mật năm 1907 và 1910. Ví dụ, Hiệp ước Nga-Nhật ngày 30 tháng 7 năm 1907 tuyên bố rằng "Chính phủ Đế quốc Nhật Bản sẽ công nhận mối quan tâm đặc biệt của Nga ở Ngoại Mông và kiềm chế mọi nỗ lực làm tổn hại đến lợi ích đó".
 
Lần đầu tiên trong thỏa thuận này, cái tên “Hải ngoại Mông Cổ” được sử dụng và kể từ đó nó được sử dụng trong các văn bản pháp luật quốc tế. Lúc đầu, các vị vua Mãn Châu gọi những người du mục theo Vạn Lý Trường Thành là các tỉnh nước ngoài, nhưng sau đó họ đặt tên 49 tỉnh phía nam Mông Cổ là tỉnh nội địa, và 150 tỉnh khác, như Khalkh, Khovdin Kirak và Khokh Nuur, được gọi là tỉnh nước ngoài. 

Mông Cổ là khu vực có lợi ích kinh tế và thương mại đối với Nga. Vì điều này, Nga đã công nhận Mông Cổ là phạm vi ảnh hưởng của mình không chỉ bởi Nhật Bản mà còn bởi Anh và Pháp. Nhưng người Nga không có ý định ủng hộ hoàn toàn nền độc lập của Mông Cổ. Sau khi đánh giá năng lực của Mông Cổ vào thời điểm đó, người Nga lo ngại rằng việc ủng hộ hoàn toàn nền độc lập của Mông Cổ sẽ là một trách nhiệm quá cao. Vào thời điểm đó, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nước Nga Sa hoàng D. Sazanov cho biết tại cuộc họp của Duma Quốc gia, "Khalkh Mông Cổ về mặt lịch sử chưa được chuẩn bị để trở thành một quốc gia độc lập, bởi vì không có nhân vật quân sự, tài chính hoặc công chúng ở Khalkh Mông Cổ."
 
Nước Nga Sa hoàng không quan tâm đến việc làm căng thẳng mối quan hệ với các cường quốc khác về vấn đề Mông Cổ, đặc biệt là làm tổn hại đến mối quan hệ láng giềng tốt đẹp của nước này với Trung Quốc. Mặt khác, Cộng hòa Trung Hoa, nổi lên từ sự thống trị của người Mãn Châu, đã kiên quyết giữ vững lập trường của mình và phủ nhận nền độc lập của Mông Cổ.
 
Trong Hiến pháp của Nhà nước Trung Dân ngày 10 tháng 3 năm 1912 có ghi rằng "lãnh thổ của DIU bao gồm 22 tỉnh, Ngoại Mông, Nội Mông, Tây Tạng và Hồng Hồ." Vào tháng 10 năm 1912, Sa hoàng đã ký một hiệp ước hữu nghị và giao thức thương mại giữa Nga và Mông Cổ. Ngoài việc cấp đặc quyền thương mại cho Nga, Nga còn cam kết giúp thành lập chính phủ tự trị ở Ngoại Mông và ngăn chặn quân đội Trung Quốc xâm nhập vào lãnh thổ của mình. Nga và Trung Quốc ra tuyên bố về Mông Cổ vào ngày 23/10/1913 sau một thời gian dài tranh cãi. Trong đó, Nga và Trung Quốc công nhận chủ quyền của Mông Cổ, còn Trung Quốc công nhận quyền tự trị của Ngoại Mông. Đồng thời thống nhất khu vực Uriankhai của Mông Cổ sẽ sáp nhập vào Nga, khu vực Altai của Mông Cổ sẽ sáp nhập vào Trung Quốc, do đó, vào năm 1914-1915, Mông Cổ, Trung Quốc và Nga đã ký Hiệp định Hiagt, bãi bỏ quy chế này. Mông Cổ được tuyên bố là một quốc gia tự trị thuộc chủ quyền của Trung Quốc, về mặt lãnh thổ, Mông Cổ được xác định chỉ gồm 4 tỉnh người Khalkh và biên giới Khovd, bị cắt tách khỏi phần còn lại của Nội Mông, Khokonbuir, Thượng Mông Cổ, Buriad và Tuva. Tuy nhiên, hai nước láng giềng đồng ý rằng Ngoại Mông sẽ có hoàng đế, chính phủ quốc gia, biên giới xác định, quân đội quốc gia và các hiệp định thương mại và công nghiệp với các nước khác. Tình trạng này thực sự tồn tại cho đến năm 1946. 
 
3) Công nhận nền độc lập của Mông Cổ
 
Cuộc tổng tuyển cử độc lập của toàn dân năm 1945
 
Liên Xô, từ ngày 30 tháng 6 đến ngày 14 tháng 8 năm 1945, trong Hiệp định Nhân dân Trung gian, yêu cầu trao trả nền độc lập của Mông Cổ cho Trung Quốc. Trước đó, tại cuộc họp của những người đứng đầu chính phủ ba cường quốc đồng minh (Liên Xô, Mỹ và Anh) tổ chức tại Yalta , người ta đã quyết định giữ nguyên "Hiện trạng" của Ngoại Mông .
 
 
 
Phía Trung Quốc kiên quyết từ chối cho phép Ngoại Mông độc lập, nhưng do tình hình nội bộ của Trung Quốc và tình hình quốc tế lúc đó, họ buộc phải chấp nhận dưới áp lực của Liên Xô. Nhưng họ đặt ra một điều kiện là người dân Ngoại Mông phải chính thức bày tỏ mong muốn độc lập. Như vậy, ngày 20/10/1945, 487.400 người có quyền bầu cử ở Trung Hoa Dân Quốc đã bỏ phiếu đòi độc lập 100% nên phía Trung Quốc chính thức công nhận Mông Cổ vào ngày 6/1/1946.
 
 
 
Sau khi Trung Hoa Dân Quốc công nhận CHND Mông Cổ, Liên Xô lần đầu tiên công nhận hoàn toàn CHND Mông Cổ và ký Hiệp ước Hữu nghị và Tương trợ, đồng thời thay đổi văn phòng đại diện tại Ulaanbaatar thành Đại sứ quán Liên Xô. Chính phủ Quốc dân đảng Trung Hoa Dân Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước vào ngày 13 tháng 12 năm 1946. Ngày 6 tháng 10 năm 1949, Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cắt đứt quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa/Đài Loan, đồng thời cùng ngày gửi thông điệp tới Chính phủ Mông Cổ thiết lập quan hệ ngoại giao và trao đổi đại diện ngoại giao.
 
Ngày 16/10/1949, Chính phủ Trung Quốc tuyên bố trao đổi đại diện ngoại giao để thiết lập quan hệ ngoại giao với nước CHND Mông Cổ. Đến năm 1950, sau khi các nước láng giềng chính thức công nhận hoàn toàn nền độc lập của CHND Mông Cổ, nhiều nước châu Á, châu Âu, Mỹ, châu Phi đã thiết lập quan hệ ngoại giao và hợp tác, uy tín của CHND Mông Cổc tăng lên đáng kể trên trường quốc tế. Đây là sự thật lịch sử chính cho thấy Mông Cổ đã trở thành một quốc gia thực sự có chủ quyền và độc lập.
 
Phó Tổng thống Mỹ Henry Welles thăm Mông Cổ vào đầu tháng 7 năm 1944. Ông đến Mông Cổ vào giữa Thế chiến thứ hai và trở về với kết luận rằng: “Mặc dù chịu ảnh hưởng của Liên Xô nhưng người Mông Cổ có tư tưởng riêng, dũng cảm, độc lập và chính quyền nằm trong tay thanh niên”. 
 
Mục đích chuyến thăm của ông là để tìm hiểu xem Ngoại Mông hay CHND Mông Cổ, được Stalin nhắc đến nhiều lần trong cuộc họp năm 1943 của lãnh đạo ba cường quốc đồng minh ở Tehran, Iran, có thể thực sự trở thành một quốc gia độc lập hay không, và liệu có mối quan hệ nào giữa Mông Cổ và Trung Quốc. Nhận xét của Welles đã thuyết phục Tổng thống Hoa Kỳ F. D. Roosevelt rằng CHND Mông Cổ là một quốc gia có ngôn ngữ, văn hóa, bản sắc và lịch sử dân tộc riêng, độc lập với Trung Quốc và ở cấp độ một quốc gia độc lập độc lập với Trung Quốc với sự hỗ trợ của Nga. Vì vậy, để thực hiện mục tiêu lôi kéo Liên Xô vào cuộc chiến chống Nhật Bản, F. Roosevelt đã bỏ phiếu ủng hộ công nhận hiện trạng của CHND Mông Cổ tại hội nghị Yalta năm 1945 và các cuộc họp Podstam. 
 
 
Tại cuộc họp ở Yalt, Stalin đã thuyết phục được F. Roosevelt chính thức thông báo cho nhà lãnh đạo Trung Hoa Dân Quốc, Tưởng Giới Thạch, về tuyên bố của ba cường quốc về việc công nhận nguyên trạng của CHND Mông CổBởi vì thỏa thuận năm 1924 giữa Liên Xô và Quốc dân đảng Trung Quốc quy định rằng Liên Xô sẽ công nhận Mông Cổ là một phần của Trung Hoa Dân Quốc.
 
 
Khi nhà lãnh đạo Liên Xô I. Stalin nhìn thấy mục tiêu giành độc lập cho Mông Cổ của Liên Xô, hay Cộng hòa Mông Cổ lúc bấy giờ, Đường sắt Siberia, là tuyến liên lạc, và vận tải đường bộ chính theo hướng Siberia và Viễn Đông của Liên Xô, nằm trong khu vực biên giới Liên Xô, được coi là đáp ứng yêu cầu trở thành quốc gia lá chắn bảo vệ. Trong cuộc gặp với đại diện Trung Quốc, I. Stalin nói: “Nhật Bản hiện đã bị đánh bại, nhưng trong 30-40 năm nữa sẽ phục hồi và hùng mạnh trở lại, và lúc này chúng ta cần đảm bảo an toàn cho tuyến đường sắt xuyên Siberia”. “Vì mục đích này, cần có một quốc gia lá chắn trung gian giữa Liên Xô và Cộng hòa Trung Quốc, vì vậy chúng tôi quan tâm đến nền độc lập của quốc gia này”.
 
4) Nền độc lập của Mông Cổ được Liên hợp quốc công nhận trên trường quốc tế  
 
Bằng việc tham gia cuộc chiến chống Nhật Bản năm 1945 nhằm góp phần vào công việc của Liên hợp quốc, CHND Mông Cổ đã đứng vững về phía Liên hợp quốc và chứng tỏ sẵn sàng đấu tranh vì hòa bình thế giới. Vào ngày 21 tháng 6 năm 1946, Chính phủ CHND Mông Cổ lần đầu tiên nộp đơn xin gia nhập Liên hợp quốc. Trong bản kiến ​​nghị gửi Liên hợp quốc, CHND Mông Cổ đã tích cực tham gia cuộc chiến chống Đức, Nhật Bản, tin rằng Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và Đại hội đồng sẽ xem xét đóng góp của nhân dân Mông Cổ cho Liên hợp quốc và thông qua yêu cầu CHND Mông Cổ gia nhập Liên hợp quốc, cùng với việc tuyên bố tồn tại, CHND Mông Cổ bày tỏ sự tuân thủ đầy đủ mọi quy định của Hiến chương Liên hợp quốc.
 
Tuy nhiên, CHND Mông Cổ gặp phải những trở ngại đáng kể trong việc gia nhập cộng đồng quốc tế và phải 3 lần nữa nộp đơn xin gia nhập tổ chức này vào các năm 1948, 1955 và 1956. Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ủng hộ đề xuất của 28 quốc gia, trong đó có Thụy Điển, tham gia cùng 18 quốc gia nộp đơn xin gia nhập Liên Hợp Quốc vào năm 1955. Nhưng khi Hội đồng Bảo an thảo luận vấn đề này, đại diện của Tưởng Giới Thạch đã phủ quyết CHND Mông Cổ. Tuy nhiên, ngày 25/10/1961, Hội đồng Bảo an đã thảo luận về việc Cộng hòa Moldova và Mauritania gia nhập Liên hợp quốc, sau đó là dự thảo nghị quyết do đại diện của 11 nước xã hội chủ nghĩa cùng đệ trình, cũng như 23 nước trong đó có Ấn Độ, Indonesia, Iraq và Ai Cập đã được thảo luận tại phiên họp XXVI của Đại hội đồng, ngày 27 tháng 10 năm 1961, CHND Mông Cổ được chấp thuận là thành viên của Liên hợp quốc. Đây là một sự kiện lịch sử quan trọng sẽ chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử giành độc lập của Mông Cổ. Các nhà nghiên cứu tin rằng việc CHND Mông Cổ trở thành thành viên chính thức của Liên hợp quốc là một sự kiện xứng đáng được quốc tế công nhận nền độc lập của nước này.
 
 
5) Nền độc lập của Mông Cổ được Hiến pháp bảo đảm
 
 
Trong Hiến pháp mới của Mông Cổ được thông qua ngày 13 tháng 1 năm 1992: Chúng tôi, người dân Mông Cổ: - củng cố độc lập và chủ quyền của đất nước, - coi trọng nhân quyền, tự do, công lý và đoàn kết dân tộc, - tôn trọng pháp quyền, trân trọng quyền con người. lịch sử và truyền thống văn hóa, - tôn trọng những thành tựu của nền văn minh nhân loại, - coi đó là sứ mệnh phát triển một xã hội dân chủ nhân đạo, dân chủ ở nước ta. Đó là lý do tại sao chúng tôi công bố Hiến pháp Mông Cổ trên toàn thế giới.
 
Điều đầu tiên của chương đầu tiên của Hiến pháp nêu rõ:
 
1. Mông Cổ là một nước cộng hòa độc lập, có chủ quyền.
 
2. Có thể khẳng định rằng bảo đảm dân chủ, công bằng, tự do, bình đẳng, đoàn kết dân tộc và pháp quyền là những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của Nhà nước.
 
Điều thứ tư tuyên bố rằng "sự toàn vẹn lãnh thổ của Mông Cổ và biên giới của nó là bất khả xâm phạm."
 
Cho đến nay, một số công dân Mông Cổ vẫn tin rằng "Nga là sự đảm bảo cho nền độc lập của Mông Cổ". Đây là một quan điểm sai lầm. Không nước ngoài nào có thể đảm bảo nền độc lập của Mông Cổ. Mỗi quốc gia trên thế giới đều có hiến pháp, biên giới, chính phủ, quân đội, con người, ngôn ngữ và văn hóa riêng. Mông Cổ, giống như các quốc gia khác trên thế giới, có lãnh thổ riêng, hiến pháp riêng, nhà nước Mông Cổ, quân đội, ngôn ngữ và văn hóa, giáo dục, y tế và cơ sở hạ tầng, tiền tệ, công nghiệp, nông nghiệp và trồng trọt. Nói tóm lại, sự đảm bảo cho nền độc lập của Mông Cổ là biên giới của Mông Cổ, của nhân dân Mông Cổ và nhà nước Mông Cổ. Bảo vệ nền độc lập, tự do của Mông Cổ là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người dân Mông Cổ. 
 
(*) Bài viết của  Dorji Sukhbaatar thể hiện quan điểm của tác giả, đăng trên Sonin.mn 
Chào mừng các bạn đến với MỘT THỜI MONGOLIA ĐỂ NHỚ

Chụp ảnh kỷ niệm những người đang sinh sống tại Tp Hồ Chí Minh nhân Quốc khánh Mongolia 1993 (từ trái qua: Bình, Hoàng, Hạnh, Đại, Tý, Việt, Đạt, Huân)